bẢn tin thÁng 03/2017 -...

48
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 03/2017 (Phục vụ cung cấp thông tin trọn gói) A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Thiết bị công nghệ mới giúp cải thiện khả năng nhận thức cho bệnh nhân đa sơ cứng Miếng gạc mũi có thể hỗ trợ chẩn đoán ung thư phổi Chế tạo thành công phôi thai nhân tạo đầu tiên trên thế giới Kính thực tế ảo tăng cường để hỗ trợ bác sĩ Phát triển thành công máy bơm giấy có thể ứng dụng để tạo ra các thiết bị y sinh, kênh dẫn vi lưu linh động Vật liệu mới tái tạo xương Các nhà khoa học kích thích hệ miễn dịch để ngăn chặn sự phát triển của ung thư Phương pháp mới trong điều trị hen suyễn Que thử xác định nhóm máu chưa mất đến một phút Nga tìm ra phương pháp mới chẩn đoán bệnh ở trẻ sinh non Phương pháp sinh hóa mới chẩn đoán chính xác chứng tự kỷ ở trẻ em Thuốc evolocumab mới hiệu quả hơn statin trong việc cắt giảm mức cholesterol Loại máy ảnh thay thế thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử có khả năng quét võng mạc Các nhà khoa học Anh đạt được đột phá về bệnh lao đầu tiên trên thế giới Da năng lượng mặt trời có thể giúp chân tay giả cảm nhận được va chạm Phương pháp điều trị mới cho những người bị liệt toàn thân Tìm ra phương pháp mới chữa u não mà không cần phẫu thuật Phản ứng được thúc đẩy bởi ánh sáng chuyển đổi CO2 thành nhiên liệu Mexico phát triển thành công loại xi măng mới sử dụng công nghệ nano Gốm bền vững không cần nung Sử dụng hợp chất khung kim loại-hữu cơ để lọc hydro đồng vị nặng Hệ điều hành máy tính và bộ phim ngắn được lưu trữ trên ADN Phát minh tấm lợp chống nóng có chức năng như điều hòa nhiệt độ Sản xuất nhiên liệu sinh học từ vi tảo Tìm ra cách lọc sạch nước không cần tia UV Mạch in phun giảm giá thành cho hình xăm điện tử Sử dụng xenlulô để in 3D Công nghệ mới sản xuất pin Lithi-ion sạc nhanh, không cháy Công nghệ nano có thể mở đường để phục hồi các cơ quan được kết đông Graphene giúp các nhà khoa học thu thập và phân tích tế bào Thiết bị quan trắc giá rẻ sử dụng ánh sáng để phát hiện nhanh sự cố tràn dầu Hydrogel sợi cốt thép bền chắc hơn 5 lần so với thép

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN

BẢN TIN THÁNG 03/2017 (Phục vụ cung cấp thông tin trọn gói)

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Thiết bị công nghệ mới giúp cải thiện khả

năng nhận thức cho bệnh nhân đa sơ cứng

Miếng gạc mũi có thể hỗ trợ chẩn đoán ung

thư phổi

Chế tạo thành công phôi thai nhân tạo đầu

tiên trên thế giới

Kính thực tế ảo tăng cường để hỗ trợ bác sĩ

Phát triển thành công máy bơm giấy có thể

ứng dụng để tạo ra các thiết bị y sinh, kênh

dẫn vi lưu linh động

Vật liệu mới tái tạo xương

Các nhà khoa học kích thích hệ miễn dịch

để ngăn chặn sự phát triển của ung thư

Phương pháp mới trong điều trị hen suyễn

Que thử xác định nhóm máu chưa mất đến

một phút

Nga tìm ra phương pháp mới chẩn đoán

bệnh ở trẻ sinh non

Phương pháp sinh hóa mới chẩn đoán chính

xác chứng tự kỷ ở trẻ em

Thuốc evolocumab mới hiệu quả hơn statin

trong việc cắt giảm mức cholesterol

Loại máy ảnh thay thế thuốc nhỏ mắt làm

giãn đồng tử có khả năng quét võng mạc

Các nhà khoa học Anh đạt được đột phá về

bệnh lao đầu tiên trên thế giới

Da năng lượng mặt trời có thể giúp chân

tay giả cảm nhận được va chạm

Phương pháp điều trị mới cho những người

bị liệt toàn thân

Tìm ra phương pháp mới chữa u não mà

không cần phẫu thuật

Phản ứng được thúc đẩy bởi ánh sáng

chuyển đổi CO2 thành nhiên liệu

Mexico phát triển thành công loại xi măng

mới sử dụng công nghệ nano

Gốm bền vững không cần nung

Sử dụng hợp chất khung kim loại-hữu cơ để

lọc hydro đồng vị nặng

Hệ điều hành máy tính và bộ phim ngắn

được lưu trữ trên ADN

Phát minh tấm lợp chống nóng có chức

năng như điều hòa nhiệt độ

Sản xuất nhiên liệu sinh học từ vi tảo

Tìm ra cách lọc sạch nước không cần tia UV

Mạch in phun giảm giá thành cho hình xăm

điện tử

Sử dụng xenlulô để in 3D

Công nghệ mới sản xuất pin Lithi-ion sạc

nhanh, không cháy

Công nghệ nano có thể mở đường để phục

hồi các cơ quan được kết đông

Graphene giúp các nhà khoa học thu thập

và phân tích tế bào

Thiết bị quan trắc giá rẻ sử dụng ánh sáng

để phát hiện nhanh sự cố tràn dầu

Hydrogel sợi cốt thép bền chắc hơn 5 lần so

với thép

Page 2: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

2

Các nhà nghiên cứu phát triển được phương

pháp mới có thể lập trình tổ chức hạt nano

bên trong các màng mỏng polymer

Các nhà hóa học tạo ra “lá” phân tử thu và

trữ năng lượng mặt trời mà không có tấm

năng lượng mặt trời

Tạo ra vật liệu từ tính cao để cải thiện các

công nghệ máy tính

Đột phá trong phát triển quá trình xử lý phục

vụ chế tạo các màng phân tách siêu chọn lọc

Màn hình 3D mới sử dụng bong bóng để

chiếu hình ảnh

Chế tạo vật liệu không độc hại sản xuất điện

Mexico phát minh ra pin vĩnh cửu, bật sáng

đèn pin trong 100 năm

Máy lọc nước từ gỗ cung cấp một phương

pháp lọc nước di động, thân thiện với sinh thái

Tế bào bất tử có khả năng sản xuất hồng

cầu vô hạn

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0016551 Hợp chất agomelatin

hyđroclorua hyđrat, phương pháp điều chế

và dược phẩm chứa nó

1-0016562 Thiết bị trị liệu bằng ánh sáng

1-0016565 Chất điều biến thụ thể glucagon

và dược phẩm chứa nó

1-0016595 Sử dụng progestogen để sản

xuất thuốc dùng để điều trị bệnh lạc nội

mạc tử cung

1-0016591 Peptit vòng làm vacxin để điều

trị bệnh Alzheimer và phương pháp sản

xuất peptit này

1-0016553 Mỹ phẩm dùng cho lông mi

1-0016619 Mỹ phẩm dạng lỏng

1-0016541 Chế phẩm tẩy giặt và phương

pháp xử lý vải dệt bằng chế phẩm này

1-0016556 Chế phẩm giặt tẩy quần áo dạng

bột và phương pháp giặt tẩy quần áo sử

dụng chế phẩm này

1-0016533 Chế phẩm tạo lớp phủ hóa rắn

được bằng bức xạ, vật liệu bao gói và

phương pháp phủ vật liệu bao gói

1-0016609 Vật dụng thấm hút được bao gói

riêng

1-0016594 Lớp nền được cán các tông ép

nhựa trong nước

1-0016589 Sản phẩm kích thích miễn dịch

dùng qua đường miệng để dùng trong nghề

nuôi trồng thủy sản và quy trình sản xuất

sản phẩm này

1-0016532 Chế phẩm tạo lớp phủ gốc nước

để tạo màng phủ đơn và màng phủ thu được

bằng cách phủ chế phẩm này

1-0016547 Sol titan dioxit dạng keo và

phương pháp điều chế sol titan dioxit dạng

keo này

1-0016592 Chế phẩm diệt côn trùng và quy

trình điều chế chế phẩm này

1-0016596 Phương pháp làm giàu selen

hữu cơ cho vi sinh vật quang hợp sử dụng

axit selenohydroxy và vi sinh vật thu được

bằng phương pháp này

Page 3: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

3

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Thiết bị công nghệ mới giúp cải thiện khả năng nhận thức cho bệnh nhân đa sơ cứng

Bệnh đa sơ cứng (MS) là bệnh suy

nhược thần kinh gây ảnh hưởng đến hàng

chục nghìn người Mỹ và mỗi tuần có khoảng

200 trường hợp mới được chẩn đoán mắc căn

bệnh này. Cho đến nay vẫn chưa tìm ra được

các phương pháp điều trị căn bệnh này. Hiện

các nhà nghiên cứu đang nỗ lực nghiên cứu

để tìm hiểu nguyên nhân và cố gắng làm giảm

các triệu chứng của bệnh. Liệu pháp điều trị

phổ biến nhất là hiện nay là dùng thuốc

steroid do loại thuốc này cho thấy khả năng

hồi phục nhanh.

Tuy nhiên, mới đây một thiết bị công

nghệ mới có tên là transcranial direct current

stimulation (tDCS) do Marom Bikson, giáo

sư kỹ thuật y sinh tại Trường Đại học The

City, New York và Abhishek Datta, giám đốc

công nghệ tại Soterix Medical cùng các cộng

sự chế tạo đã cho thấy có khả năng cải thiện

các triệu chứng của bệnh MS. Các kết quả

nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí

Neuromodulation: Technology at the Neural

Interface.

Sự tác động của tDCS đối với khả năng

nhận thức

Trong thủ thuật tDCS, những người

tham gia nghiên cứu sẽ được gắn một bộ điện

cực trên phần da đầu, sau đó nhóm nghiên

cứu sẽ một dòng điện có biên độ thấp truyền

qua bộ điện cực này. Dòng điện này sẽ kích

thích vỏ não, do đó cho phép các nơ ron thần

kinh truyền tín hiệu đến các nơ ron thần kinh

khác một cách dễ dàng. Điều này có thể giúp

cải thiện kết nối thần kinh, tăng khả năng học

hỏi và sự tập chung cho bệnh nhân MS.

Trong nghiên cứu này, 25 bệnh nhân

tham gia nghiên cứu đã được cho sử dụng

thiết bị tDCS trong khi họ chơi điện tử trên

máy tính - đây là một phần trong chương

trình rèn luyện não của bệnh nhân. Mục tiêu

của trò chơi điện tử này là cải thiện các kỹ

năng liên quan đến nhận thức cũng như các

năng lực giải quyết vấn đề, sự tập trung chú

ý, xử lý thông tin, thời gian phản hồi và các

kỹ năng làm việc dùng trí nhớ khác.

Thiết bị tDCS nhắm mục tiêu đến vùng

vỏ não trán trước lưng bên (the brain's

dorsolateral prefrontal cortex). Vùng não này

liên quan đến sự mệt mỏi, suy thái và nhận

thức, đây là các vùng tác chịu tác động bởi

MS.

Những người tham gia trải qua quá trình

tập luyện tại nhà và hoàn thành 10 bài tập

luyện liên quan đến nhận thức trong khi được

giám sát từ xa. Một kỹ thuật viên nghiên cứu

sẽ kiểm tra từng người tham gia thông qua

hội nghị truyền hình trực tuyến, và họ có thể

kiểm soát liều lượng tDCS từ xa. Mỗi buổi

tập kéo dài trong 20 phút.

Nghiên cứu này bao gồm một nhóm đối

chứng gồm 20 người không mắc bệnh MS và

cũng trải qua các bài tập luyện tương tự như

những người mắc bệnh MS.

Các kết quả nhận thức đã được đánh giá

bằng điểm số hỗn hợp có thể đo hiệu suất đối

với tất cả các bài kiểm tra nhận thức tiêu

chuẩn, các bài kiểm tra sự chú ý cơ bản và

phức tạp, cũng như thử phản ứng. tDCS cải

thiện được các vấn đề liên quan và thời gian

phản ứng của các bệnh nhân MS.

Nhìn chung, nhóm sử dụng tDCS đạt

điểm số về nhận thức cao hơn so với những

Page 4: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

4

người chỉ luyện tập trò chơi máy rèn luyện

não. Các số đo mức độ chú ý phức tạp bằng

máy tính và máy cảm biến cho thấy nhóm sử

dụng tDCS có sự cải thiện hơn rất nhiều so

với nhóm đối chứng và có tín hiệu thời gian

phản ứng nhanh hơn. Nghiên cứu cũng không

phát hiện thấy những khác nhau giữa các

phép đo sự chú ý cơ bản và khả năng nhận

thức tiêu chuẩn. Theo Charvet, cần có nhiều

bài luyện tập điều trị hơn để có thể thấy được

những cải thiện trong hoạt động hàng ngày

của bệnh nhân.

Nghiên cứu này bổ sung bằng chứng

cho thấy tDCS, khi được tiến hành thực hiện

từ xa theo một phác đồ điều trị có giám sát,

có thể cung cấp một lựa chọn điều trị mới thú

vị cho những bệnh nhân đa xơ cứng có những

triệu chứng về nhận thức nặng.

“Nhiều loại thuốc dùng trong điều trị

MS chủ yếu là ngăn chặn các dấu hiệu của

bệnh, nhưng những loại thuốc này không hỗ

trợ quản lý các triệu chứng hàng ngày, đặc

biệt là các vấn đề về nhận thức. Nhóm nghiên

cứu hy vọng tDCS sẽ cải thiện vấn đề này và

giúp cho bệnh nhân có cuộc sống chất lượng

hơn”, Leigh E. Charvet cho biết.

Tác giả nghiên cứu cũng nhấn mạnh

rằng, công nghệ này có thể giúp bệnh nhân ít

phải đến bệnh viện thăm khám. Tuy nhiên

cần phải hỏi ý kiến bác sỹ trước khi sử dụng

thiết bị này.

Theo vista.gov.vn, 06/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Miếng gạc mũi có thể hỗ trợ chẩn đoán ung thư phổi

Một số trường hợp bệnh nhân có nguy

cơ ung thư phổi thấp, thủ tục chẩn đoán hiện

nay đôi khi tràn lan và có thể không cần thiết.

Tuy nhiên, nghiên cứu mới đây của nhóm các

nhà nghiên cứu Trường Đại học Y Boston

(BUSM), Massachusetts đã tìm ra một cách

có thể xác định các tổn thương phổi ác tính.

Điều này có thể giúp sàng lọc bệnh sớm với

chi phí ít tốn kém và ít xâm lấn. Những phát

hiện này đã được công bố trên tạp chí Journal

of the National Cancer Institute.

Thương tổn phổi-hay chính là nốt phổi

đơn độc (solitary pulmonary nodules) - là rất

nhỏ trong phổi, và thường phát hiện thấy

ngẫu nhiên khi bệnh nhân chụp X quang phổi

khi khám bệnh. Mặc dù các bác sỹ thường lo

lắng ung thư khi phát hiện ra các thương tổn

này, nhưng những nốt này phần lớn thường là

lành tính.

Đặc biệt, trong số tất cả bệnh nhân được

sàng lọc ung thư bằng kỹ thuật chụp quét cắt

lớp điện toán (CT) trong thử nghiệm sàng lọc

ung thư phổi quốc gia, có đến 25% trường

hợp bị tổn thương phổi, nhưng khoảng 95%

các trường hợp này lành tính và đang ở giai

đoạn cuối.

Như các tác giả của nghiên cứu mới này

chỉ cho biết, nhiều bệnh nhân người được kết

quả chẩn đoán là lành tính nhưng vẫn phải trải

qua các thủ thuật y tế như sinh thiết phổi. Tuy

nhiên nghiên cứu mới này đã phát hiện ra một

công cụ gen có thể cho phép các bác sỹ xác

định xem bệnh nhân có bị tổn thương ác tính

bằng cách kiểm tra miếng gạc mũi của họ.

Tế bào biểu mô mũi lưu trữ các chỉ dấu

sinh học ung thư phổi

Miếng gạc mũi có thể xác định chính xác bệnh nhân có bị ung thư phổi hay không

Page 5: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

5

Các nhà nghiên cứu BUSM đã thu thập

ống nối tế bào biểu mô mũi của các bệnh nhân

được chẩn đoán bị thương tổn phổi. Những

bệnh nhân tham gia nghiên cứu là những

người trước đây và hiện giờ đều hút thuốc.

Biểu mô này là một màng mô tế bào,

trong trường hợp này, nó bao bọc và bảo vệ

hốc mũi. Các nhà nghiên cứu tiến hành kiểm

tra biểu mô mũi đã làm sạch và biểu hiển gen

của những người tham gia bằng các sử dụng

microarrays - một công cụ gen thường được

sử dụng để phát hiện các đột biến gen như

BRCA1 và BRCA2 trong ADN của người.

Nhóm nghiên cứu phát hiện thấy các

biểu hiện gen liên quan đến ung thư, khiến

cho họ nghĩ rằng vùng biểu mô đường thở

mũi bị mở rộng ở mỗi những người hút thuốc.

Điều này gây cản trở mũi và ống nối này có

thể là chỉ dấu sinh học ung thư phổi.

“Phát hiện này của chúng tôi chứng

minh sự tổn thương thực thể của vùng đường

hô hấp có liên quan đến bệnh ung thư. Chúng

tôi phát hiện thấy biểu hiện gen mũi chứa các

thông tin về sự hiện diện của ung thư mà

không lệ thuộc vào các yếu tố nguy cơ lâm

sàng tiêu chuẩn cũng như các biểu hiện gen

biểu mô mũi có thể trợ giúp trong việc phát

hiện ung thư phổi. Hơn nữa, có thể được thu

thập các mẫu mũi mà không xâm lấn bằng

dụng cụ y khoa”. Marc Lenburg, giáo sư y học

tại BUSM và đồng tác giả nghiên cứu cho biết.

Avrum Spira, giáo sư y khoa, bệnh lý

học và thông tin y học tại BUSM cũng nhấn

mạnh: “Cần phải phát triển các phương pháp

chẩn đoán bổ sung để đánh giá các tổn

thương liên quan đến phổi để xác định bệnh

nhân nào nên cho chụp CT và sinh thiết. Khả

năng kiểm tra các biến đổi phân tử trong

vùng tổn thương có thể cho phép chúng ta

loại bệnh sớm hơn mà không cần phải tiến

hành thủ thuật sinh thiết”.

Theo tiến sĩ Spira giải thích: “Nhóm

nghiên cứu trước đây đã tìm thấy nguồn gốc

và kiểm nhận được chỉ dấu sinh học biểu hiện

gen biểu mô cuống phổi để phát hiện ung thư

phổi ở những người trước đây hút thuốc và

những người hiện đang hút thuốc. Phương

pháp mới này được xem là phương pháp cải

tiến trong chẩn đoán ung thư phổi. Khi bệnh

nhân tiếp xúc với khói thuốc lá, các biểu hiện

gen biểu mô phế quản và mũi biến đổi giống

nhau. Do đó, theo các nhà nghiên cứu, việc

tiếp cận biểu mô mũi có thể phát hiện biểu

hiện gen gây ung thư hơn”.

Theo vista.gov.vn, 06/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo thành công phôi thai nhân tạo đầu tiên trên thế giới

Phôi thai nhân tạo được tạo ra nhờ sử dụng hai loại tế bào gốc. Ảnh: Đại học Cambridge.

Các nhà khoa học Anh chế tạo thành

công phôi thai nhân tạo đầu tiên trên thế giới

trong phòng thí nghiệm nhờ sử dụng tế bào

gốc.

Các nhà khoa học tại Đại học

Cambridge, Anh, chế tạo thành công phôi thai

nhân tạo đầu tiên trên thế giới của chuột nhờ

sử dụng hai loại tế bào gốc và một khung 3D

cho phôi thai phát triển, theo Nature World

News. Kết quả nghiên cứu được công bố trên

tạp chí Science hôm 2/3.

Nhóm nghiên cứu sử dụng tế bào gốc

phôi chuột biến đổi gene (ESC), có chức năng

hình thành cơ thể, và tế bào gốc lá nuôi phôi

ngoài phôi (TSC) tạo thành nhau thai, để phát

triển thành công một cấu trúc tự động lắp ráp

và có khả năng giao tiếp với nhau, gần giống

phôi thai tự nhiên.

Page 6: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

6

"Nó có những vùng giống phôi thai về

mặt giải phẫu, phát triển ở đúng nơi và đúng

thời điểm", Magdalena Zernicka-Goetz, tác

giả chính của nghiên cứu, cho biết.

Phôi nhân tạo này phát triển theo mô

hình phôi tự nhiên, ECS ở một bên và TCS ở

phía bên kia trước khi chúng kết hợp lại.

Zernicka-Goetz nhấn mạnh tầm quan trọng

của việc giao tiếp giữa hai loại tế bào phôi và

ngoài phôi, chúng có khả năng "nói chuyện

với nhau".

"Điều nổi bật trong nghiên cứu của

chúng tôi là khiến các tế bào gốc thực sự hợp

tác và ảnh hưởng lẫn nhau để hình thành

phôi", Zernicka-Goetz nói.

Zernicka-Goetz cho biết, sự hợp tác này

rất quan trọng vì không có nó, tế bào sẽ

không phát triển thành hình dạng chính xác

và các cơ chế sinh học không thể xảy ra vào

đúng thời điểm. Một loại tế bào gốc thứ ba,

có chức năng hình thành túi noãn hoàng,

trong tương lai sẽ được thêm vào để tạo ra

phôi thai nhân tạo với đầy đủ chức năng.

"Việc phát triển phôi thai nhân tạo giúp

chúng tôi nghiên cứu những sự kiện quan

trọng trong thời kỳ đầu phát triển của con

người mà không thực sự phải làm việc trên

phôi thai người thật", Zernicka-Goetz nói.

Theo vnexpress.net, 07/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Kính thực tế ảo tăng cường để hỗ trợ bác sĩ

Các nhà khoa học đang phát triển một

chiếc kính phẫu thuật thực tế ảo tăng cường

(AR) có khả năng chồng lên hình ảnh X-

quang của bệnh nhân và các thông tin y tế

khác trong không gian 3D cùng với giải phẫu

của họ.

Theo các nhà nghiên cứu, kính hiển vi

này nhằm mục đích tránh cho bác sĩ phẫu

thuật không quay sang xem dữ liệu bệnh nhân

trong khi đang làm các thủ tục tinh vi, có thể

dẫn đến giảm thời gian phẫu thuật và cải thiện

độ chính xác phẫu thuật.

Hệ thống phẫu thuật thực tế ảo tăng

cường qua quang học hình ảnh (VOSTARS)

sẽ hiển thị dữ liệu gây tê, nhịp tim, nhiệt độ

cơ thể, huyết áp và tỷ lệ thở trong tầm mắt

của bác sĩ phẫu thuật.

Dự án, được tài trợ bởi Dự án Horizon

2020, dự báo cải thiện đáng kể về độ chính

xác phẫu thuật và giảm thời gian gây tê ít

nhất 11%.

Điều phối viên dự án, Tiến sĩ Vincenzo

Ferrari, nhà nghiên cứu kỹ thuật y sinh học

thuộc Khoa kỹ thuật thông tin của Đại học

Pisa, Ý, cho biết: "Với chiếc kính hiện đại và

tiện dụng này, chúng tôi sẽ cung cấp tất cả

các thông tin cần thiết để cải thiện phẫu

thuật. Mục đích chính là không chỉ giảmg

thời gian phẫu thuật, mà còn giảm thời gian

gây tê và chi phí liên quan đến bất kỳ hoạt

động nào. Đối với bệnh nhân, điều này có

nghĩa là tiết kiệm được 20 phút trong ba giờ

phẫu thuật”.

Kính hiển thị này kết hợp các màn hình

siêu vi, có độ sáng cao và ống dẫn sóng quang

học LED để chiếu các hình ảnh X-quang 2D

vào tầm nhìn của người sử dụng. Hệ thống sẽ

hoạt động bằng cách chụp hình phối cảnh của

bác sĩ phẫu thuật nhờ sử dụng một camera gắn

trên đầu và sau đó hợp nhất cảnh này với dữ

liệu bệnh nhân thời gian thực.

Ferrari cho biết thêm: "Bác sĩ lâm sàng

có thể di chuyển tự do trong khi vẫn nhìn thấy

bệnh nhân, hình ảnh X-quang và tất cả các

dữ liệu quan trọng cùng một lúc trong bảng

điều khiển phẫu thuật bên trong màn hình”.

Page 7: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

7

Đã ba tháng tham gia vào dự án kéo dài

ba năm, VOSTARS dự định sẽ có một mẫu

thiết bị thử nghiệm sẵn sàng vào tháng 5/2018.

Ban đầu được thử nghiệm về một số thủ tục

cho đầu, dự án hy vọng sẽ có sẵn để cung cấp

người dùng trực tiếp trong ba năm, sản xuất

hàng loạt được tiến hành vào năm 2022.

Theo vista.gov.vn, 13/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Phát triển thành công máy bơm giấy có thể ứng dụng để tạo ra các thiết bị y sinh, kênh dẫn vi lưu linh động

Nguồn: Glenn Walker

Bơm giấy (paper pump) hay “pin thủy

lực” (được thể hiện trên hình) sẽ bơm dung

dịch thông qua một vi kênh đơn giản với tốc

độ hằng số tối thiểu là 0.6 μl/min. Công nghệ

này có thể ứng dụng để tạo ra công nghệ mới

chẳng hạn như các công cụ chẩn đoán nhỏ

gọn, linh động có thể dùng trong nhiều lĩnh

vực.

Các nhà nghiên cứu lĩnh vực kỹ thuật y

sinh Trường Đại học North Carolina State

(NC State) và Trường Đại học North Carolina

(UNC) tại Chapel Hill đã phát triển thành

công một loại bơm giấy với chi phí rẻ bằng

cách sử dụng các ống mao dẫn để tạo ra các

thiết bị kênh dẫn vi lưu linh động, nhỏ gọn,

có thể cầm tay. Điều này mở ra cánh cửa cho

lĩnh vực thiết bị công cụ y sinh.

Microfluidic (kênh dẫn vi lưu) là một

lĩnh vực mới thú vị của khoa học và kỹ thuật

cho phép phân tích kiểm soát trên quy mô rất

nhỏ và thiết bị nhỏ gọn, tiết kiệm chi phí, hiệu

quả hơn hệ thống thông thường. Thiết bị kênh

dẫn vi lưu có thể thao tác dung dịch có dung

tích chỉ bằng một microlit hoặc ít hơn (thực

chất dung tích này nhỏ hơn một giọt nước

mắt). Các thiết bị này rất hứa hẹn sử dụng

trong các lĩnh vực ứng dụng từ thiết bị chẩn

đoán y sinh đến các công nghệ thử nghiệm

thuốc.

“Một thách thức lâu dài đối với việc

phát triển các công nghệ thiết bị kênh dẫn vi

lưu di động, có thể ứng dụng thực tế là cần

phải tìm ra một phương pháp nào đó để có

thể bơm dung dịch chất lỏng thông qua thiết

bị này khi ứng dụng ở bên ngoài phòng thí

nghiệm”, Glenn Walker, phó giáo sư lập trình

kỹ thuật y sinh tại NC State và UNC, nói.

“Độ khả dụng và linh động của thiết bị rất

quan trọng, vì thế nó mới có thể tạo ra các

ứng dụng mới, chẳng hạn như các công cụ

chẩn đoán mà có thể ứng dụng trên thực tế.

Các loại bơm điện, và các hệ thống ống nối

chúng, rất tốt đối với môi trường thí nghiệm,

nhưng những thiết bị này không dễ dàng vận

chuyển đến các nơi cần thiết”.

Hiện tại, Walker và các đồng nghiệp đã

phát triển được một phương pháp mới không

chỉ bơm dung dịch thông qua các thiết bị

kênh dẫn vi lưu, mà còn có thể dùng kiểm

soát chất quá dòng. Ngoài ra, họ có thể dừng

hoặc khởi động lại dòng, kiểm soát tỷ lệ của

dòng và kiểm soát thời gian dòng cuối.

Công nghệ lâu đời được đề cập đến là

giấy

Các nhà nghiên cứu gọi hệ thống bơm

của họ là pin thủy lực, nhưng nó không bao

gồm các thiết bị điện tử mà thay vì đó, pin

này khai thác các năng lượng để bơm từ các

hoạt động của ống mao dẫn.

Nếu bạn từng được nhìn thấy một tờ

giấy lau thấm nước bị tràn ra, bạn sẽ biết

được ống mao dẫn của nó hoạt động ra sao.

Nói một cách đại khái là, hoạt động của cấu

Page 8: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

8

trúc ống mao dẫn chính là các chất lỏng có xu

hướng bị hút vào phía trong không gian nhỏ

nhờ có sức căng bề mặt. Trong phạm vi của

pin thủy lực, nước và chất lỏng chứa nước

chẳng hạn như máu có khuynh hướng bị hút

vào các lỗ nhỏ trên mảnh giấy.

“Hệ thống của chúng tôi sử dụng các

mảnh giấy có độ dày 125 micron, nhỏ hơn sợi

tóc của người. Hoạt động của các ống mao

dẫn hút kéo dung dịch vào trong mảnh giấy

này. Và bằng cách làm biến dạng hình dạng

của mảnh giấy, chúng tôi có thể kiểm soát số

lượng và tốc độ dung dịch được hút kéo thông

qua một thiết bị được gắn chặt vào nó”,

Walker nói.

Hình dạng có thể thay đổi được theo hai

chiều bằng cách đơn giản là cắt các mảnh

giấy này ra, nhưng nó cũng có thể thao tác

theo 3 chiều bằng cách xếp chồng nhiều máy

bơm lên nhau.

“Bằng cách xếp chồng mảnh giấy này

chúng tôi có thể tạo ra nhiều sơ đồ dòng chảy

phức tạp hơn, tùy thuộc vào những nhu cầu

của bất kỳ ứng dụng. Và đặc biệt giá thành

của bất kỳ một trong những máy bơm pin thủy

lực này chỉ có giá ít hơn 1 hào”, Walker giải

thích.

Mặc dù có những phương tiện khác khả

dịch khác để bơm chất lỏng thông qua một

thiết bị microfluidic, nhưng Walker cảm thấy

rằng máy bơm giấy do nhóm ông đã phát

triển có một số lợi thế đáng kể.

“Pin thủy lực của chúng tôi nhỏ, nhẹ,

rất rẻ tiền, dễ kết nối với thiết bị và dùng một

lần. Ngoài ra, máy bơm giấy của chúng tôi có

thể được lưu lại để đánh giá sau này, chẳng

hạn như chạy thử thứ cấp, xét nghiệm để xác

nhận chẩn đoán tại chỗ”, Walker nhấn mạnh.

Hiện các nhà nghiên cứu đã nộp đơn xin

cấp bằng sáng chế cho công nghệ bơm giấy

của mình và đang tiến hành tìm kiếm các đối

tác công nghiệp để giúp đưa sản phẩm này ra

thị trường.

Nhóm nghiên cứu lạc quan cho biết: sản

phẩm này sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong

ngành y tế cộng đồng và thúc đẩy nghiên cứu

cơ bản.

Theo vista.gov.vn, 14/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Vật liệu mới tái tạo xương

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

Northwestern và Đại học Chicago, Hoa Kỳ đã

lấp đầy một lổ hổng trong hộp sọ của chuột

bằng cách tái tạo "xương có chất lượng".

Bước đột phá này có thể cải thiện đáng kể

hoạt động chăm sóc sức khỏe cho những

người bị chấn thương nghiêm trọng hộp sọ

hay mặt.

Nghiên cứu này là một thành công vang

dội, cho thấy sự kết hợp mạnh mẽ của các

công nghệ có khả năng tái tạo xương sọ với

sự hỗ trợ của các mạch máu chỉ trong khu vực

riêng biệt cần có mà không phải phát triển mô

sẹo với tốc độ nhanh hơn các phương pháp

trước đây.

Guillermo Ameer, giáo sư kỹ thuật y

sinh tại Trường Kỹ thuật McCormick thuộc

Đại học Northwestern và là giáo sư phẫu

thuật tại trường Y Feinberg cho rằng: "Các

kết quả rất thú vị. Dự án này là nỗ lực thực

sự của nhóm cộng tác, trong đó Phòng thí

nghiệm Kỹ thuật tái sinh của chúng tôi đã

cung cấp chuyên gia về vật liệu sinh học".

Những tổn thương hoặc khuyết tật ở

xương sọ hoặc xương mặt rất khó điều trị,

thường đòi hỏi bác sĩ phẫu thuật phải ghép

xương từ xương chậu, xương sườn hay xương

Page 9: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

9

ở những vị trí khác trên cơ thể bệnh nhân,

một thủ thuật có thể gây đau. Khó khăn gia

tăng nếu vùng chấn thương lớn hay nếu thủ

thuật ghép cần được đường viền như góc của

quai hàm hoặc đường cong của sọ. Nhưng

phương pháp mới có hiệu quả, thì thủ tục

ghép xương gây đau đớn sẽ trở nên lỗi thời.

Trong thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã

thu thập các tế bào sọ từ chuột và biến đổi

chúng để tạo ra một loại protein mạnh để thúc

đẩy sự phát triển của xương. Sau đó, các nhà

khoa học sử dụng hydrogel do GS. Ameer tạo

ra, hoạt động như một khung tạm thời để cung

cấp và thu hút các tế bào này đến khu vực bị

ảnh hưởng. Đó là sự kết hợp của cả ba công

nghệ đã được chứng minh rất thành công.

Sử dụng các tế bào vòm sọ hoặc xương

sọ từ chủ thể có nghĩa là cơ thể không đào

thải các tế bào đó. Protein BMP9 đã được

chứng minh thúc đẩy sự phát triển của tế bào

xương nhanh hơn so với các loại BMP khác.

Quan trọng hơn, BMP9 xem ra cũng cải thiện

quá trình hình thành mạch máu ở khu vực

này. Khả năng cung cấp các tế bào xương sọ

một cách an toàn có thể nhanh chóng tái tạo

xương ở vị trí bị ảnh hưởng trong cơ thể trái

ngược với việc sử dụng chúng để phát triển

xương trong phòng thí nghiệm cần khoảng

thời gian rất dài, hứa hẹn cho ra đời một

phương pháp điều trị thân thiện hơn và không

quá phức tạp để mở rộng quy mô trên các

bệnh nhân.

Khung được phát triển trong phòng thí

nghiệm của GS. Ameer là loại vật liệu dựa

vào axit citric được gọi là PPCN-g - một chất

lỏng khi làm nóng đến nhiệt độ cơ thể sẽ trở

thành vật liệu đàn hồi giống như gel. GS.

Ameer cho rằng: "Khi được sử dụng, chất

lỏng chứa các tế bào có khả năng tạo xương,

sẽ phù hợp với hình dạng của khuyết tật

xương để tạo nên sự phù hợp hoàn hảo. Sau

đó, nó vẫn ở vị trí như một gel, khu biệt các tế

bào tại chỗ trong thời gian sửa chữa". Khi

xương tái tạo, PPCN-g được tái hấp thu bởi

cơ thể.

GS. Ameer cho rằng: "Những gì chúng

ta thấy là những tế bào này làm cho xương

trông giống như tự nhiên khi có sự hiện diện

của PPCN-g. Xương mới rất giống với xương

thường ở vị trí đó".

Trên thực tế, phương pháp gồm ba phần

này đã thành công ở một số khía cạnh: xương

tái tạo có chất lượng tốt hơn, sự phát triển của

xương trong khu vực được xác định bởi

khung dựng trước. Khu vực này đã tái tạo

nhanh hơn nhiều, cũng như xương cũ, mới

phát triển liền mạch mà không có mô sẹo.

Nếu thủ thuật có thể được điều chỉnh để

điều trị cho người bị chấn thương do tai nạn

xe hơi hoặc ung thư xâm lấn đã ảnh hưởng

đến sọ hay mặt thì tiềm năng sẽ là rất lớn và

cung cấp cho bác sĩ phẫu thuật một lựa chọn

như mong đợi.

GS. Ameer cho rằng: "Thủ thuật tái tạo

dễ hơn nhiều khi bạn có thể thu thập một vài

tế bào và làm cho chúng sản sinh BMP9, trộn

chúng trong dung dịch PPCN-g và sử dụng

nó cho khuyết tật xương để khởi động quá

trình phát triển xương mới ở vị trí bạn mong

muốn". GS. Ameer lưu ý công nghệ này phải

mất vài năm nữa mới được sử dụng ở người.

Theo vista.gov.vn, 15/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Các nhà khoa học kích thích hệ miễn dịch để ngăn chặn sự phát triển của ung thư

Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học

Illinois đã phát hiện ra một hóa chất trong các

khối u có thể ngăn chặn sự phát triển của khối

u.

Nhóm nghiên cứu cho rằng sự gia tăng

biểu hiện của cytokine hóa học gọi là LIGHT

ở chuột bị ung thư đại tràng đã kích hoạt tế

bào T tự nhiên tiêu diệt ung thư của hệ miễn

dịch và đã làm cho khối u chính và khối u di

Page 10: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

10

căn trong gan co lại. LIGHT là thông điệp

hóa học kích thích hệ miễn dịch trước đây

được phát hiện thấy có mức độ biểu hiện thấp

ở những bệnh nhân bị ung thư đại tràng di

căn. Các kết quả nghiên cứu đã được công bố

trên Tạp chí Cancer Research.

Ở Hoa Kỳ, ung thư đại tràng là nguyên

nhân thứ hai gây tử vong liên quan đến ung

thư và dù có những tiến bộ trong điều trị,

nhưng bệnh nhân bị di căn gan sống lâu rất

hiếm. TS. Ajay Maker, Phó Giáo sư phẫu

thuật tại Trường Y, Đại học Illinois cho rằng:

"Đối với hầu hết bệnh nhân bị ung thư đại

tràng đã di căn đến gan, các phương pháp

điều trị hiện nay là giảm đau và không điều

trị. Dù các nghiên cứu đã cho thấy liệu pháp

miễn dịch có thể là một phương pháp triển

vọng cho các bệnh ung thư di căn, nhưng việc

áp dụng các phương pháp điều trị này cho di

căn đường tiêu hóa lại chưa thành công".

Theo TS. Maker, đây là nghiên cứu thú

vị xem xét sự can thiệp miễn dịch đối với ung

thư đường tiêu hóa. Can thiệp này về cơ bản

đào tạo cho hệ miễn dịch nhận biết và tấn

công khối u và bảo vệ chống lại sự hình thành

thêm khối u, một khía cạnh quan trọng của

bệnh ung thư đại tràng.

Nhóm nghiên cứu đã tạo ra các khối ung

thư đại tràng trong mô hình chuột, trong đó

các động vật có hệ miễn dịch còn nguyên vẹn

và chưa chỉnh sửa. Khi các khối u đã khá lớn,

những con chuột được lựa chọn ngẫu nhiên

thành 2 nhóm, một nhóm có LIGHT cytokine

hoạt động trong khối u và nhóm còn lại là

nhóm kiểm soát đối chứng.

Các khối u tiếp xúc với chất LIGHT cho

thấy một dòng tế bào T dẫn đến việc giảm

kích thước nhanh và bền vững, thậm chí sau

khi biểu hiện của các cytokine ngừng lại. Ở

những con chuột bị di căn gan, biểu hiện của

LIGHT tương tự đã kích thích phản ứng miễn

dịch mạnh dẫn đến sự sụt giảm kích thước

khối u.

Nhóm nghiên cứu đã chứng minh việc

cung cấp cytokine kích thích miễn dịch trị

liệu đã làm cho các tế bào T di chuyển đến

khối u và trở thành tế bào diệt khối u được

kích hoạt. Hoạt động này đặc biệt thú vị vì nó

dẫn đến một phản ứng miễn dịch mạnh mẽ

chống khối u mà không cần bất kỳ liệu pháp

hóa trị hoặc can thiệp nào khác. Việc xử lý

giúp hàng phòng thủ tự nhiên của con người

chống lại khối u theo cách nó được đào tạo để

tấn công những kẻ xâm lấn ngoại lai ở trong

cơ thể.

TS. Marker cho rằng: "Chúng tôi không

chỉ phát hiện ra rằng biểu hiện của LIGHT đã

thúc đẩy sự suy giảm của khối u, mà còn xác

định loại tế bào T cụ thể gọi là CD8 chịu trách

nhiệm thu hẹp khối u. Những phát hiện này rất

mạnh và có tiềm năng lâm sàng to lớn".

Theo vista.gov.vn, 15/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Phương pháp mới trong điều trị hen suyễn

Hen suyễn là một bệnh lý khá nguy

hiểm nếu như không được phát hiện và điều

trị kịp thời. Đây cũng là một chứng bệnh

mang tính dị ứng mà nguyên nhân là do các

dị nguyên kích thích - nhóm tác nhân. Bệnh

này hoàn toàn có thể được kiểm soát bằng

thuốc, tuy nhiên, các nhà khoa học đến từ Đại

học Y, Vienna, Áo mới đây đã giới thiệu một

phương pháp điều trị bệnh hen suyễn được

đánh giá là hiệu quả hơn nhiều so với các

phương pháp điều trị thông thường, đó là sử

dụng thiết bị lọc máu để lọc kháng thể ra khỏi

máu bệnh nhân.

Page 11: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

11

Ở bệnh nhân bị hen suyễn do dị ứng, hệ

miễn dịch phản ứng lại các chất vô hại trong

môi trường, được gọi là các chất gây dị ứng

như bụi, phấn hoa thực vật bằng cách tạo ra

số lượng lớn các kháng thể IgE trong máu.

Các kháng thể này liên kết với các tế bào

viêm trong màng nhầy và các vị trí khác, gây

ra một số triệu chứng như thở khò khè, ho và

thở dốc.

Thiết bị mới của nhóm nghiên cứu có

tên gọi IgEnio chứa các hạt được làm từ

sepharose (một loại polymer được chiết xuất

từ rong biển) mang các protein liên kết với

kháng thể IgE. Khi thực hiện thao tác bơm

máu của bệnh nhân qua cột của thiết bị, phần

lớn các kháng thể IgE sẽ bị giữ lại bởi những

protein đó, trong khi đó, lượng máu còn lại sẽ

quay trở lại cơ thể bệnh nhân.

Trong các thử nghiệm lâm sàng, nhóm

nhà nghiên cứu cho biết khoảng 80% lượng

kháng thể IgE được loại bỏ khỏi máu người

bệnh, mang lại hy vọng cũng như giúp “cải

thiện sức khỏe đáng kể đặc biệt là đối với

những người có cơ địa dị ứng". Trong quá

trình gặp các dị nguyên như phấn hoa (hay

các chất kích thích khác), nhiều kháng thể

được hình thành và có thể tăng cao tùy vào

mức độ dị ứng. Tuy vậy, các chuyên gia cho

biết việc điều trị liên tục là hết sức cần thiết,

đồng thời, khuyến cáo nên thực hiện điều trị

thử nghiệm mỗi tuần một lần. Sau một thời

gian thử nghiệm biện pháp điều trị mới, có

nhiều dấu hiệu cho thấy số lượng kháng thể

IgE trong máu bệnh nhân ngày càng giảm.

Nghiên cứu được đứng đầu bởi hai

chuyên gia là Rudolf Valenta và Christian

Lupin. Các nhà khoa học đã gợi ý nên kết hợp

phương pháp điều trị bằng thiết bị IgEnio

cùng với thuốc omalizumab vốn được chỉ

định trong điều trị hen suyễn nhằm đạt được

kết quả tốt nhất.

Theo vista.gov.vn, 16/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Que thử xác định nhóm máu chưa mất đến một phút

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại

Trường Đại học Quân y, Trung Quốc đã tạo

ra được một que thử có khả năng xác định

nhóm máu của một người trong vòng chưa

đầy một phút. Trong báo cáo nghiên cứu đăng

trên Tạp chí Science Translational Medicine,

các nhà khoa học đã mô tả phương thức hoạt

động của que thử.

Phương pháp xác định nhóm máu hiện

nay liên quan đến việc lấy mẫu máu đưa đến

phòng thí nghiệm nơi kỹ thuật viên được đào

tạo sẽ sử dụng máy ly tâm để tách và kiểm tra

các thành phần khác nhau trong máu. Toàn bộ

quy trình này có thể mất từ 30 phút đến vài

giờ tùy từng trường hợp cụ thể. Trong nỗ lực

mới này, các nhà nghiên cứu đã tạo ra một

que thử bằng giấy có thể thực hiện nhiệm vụ

tương tự trong vòng chưa đến 1 phút bởi

những người chỉ cần đào tạo trong vài phút và

kết quả gần như chính xác.

Que thử có ít kháng thể và thuốc nhuộm

đổi màu (màu xanh mòng két hoặc nâu) khi

một giọt máu được nhỏ vào. Màu sắc thay đổi

do tương tác giữa các kháng nguyên trong

mẫu máu và kháng thể trên que thử. Que thử

được gắn vào vỏ nhựa có các khe truy cập.

Trên thực tế, sản phẩm này có thể được sử

dụng giống như que thử thai thông dụng.

Máu người chủ yếu thuộc các nhóm A,

B, AB hoặc O. Nhóm máu được xác định bởi

các kháng nguyên có trên bề mặt của tế bào

hồng cầu. Nhóm máu A có kháng nguyên A,

nhóm máu B có kháng nguyên B, nhóm máu

AB có cả hai kháng nguyên này và nhóm máu

Page 12: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

12

O có không các kháng nguyên nào trong số

đó. Một loại kháng nguyên khác xác định

máu là dương tính hay âm tính. Que thử phụ

thuộc vào thực tế các kháng thể tấn công các

kháng nguyên lạ. Ví dụ, nếu một người mà

trong máu có kháng nguyên A và được truyền

máu có kháng nguyên B, thì các kháng thể

trong máu sẽ tấn công chúng, khiến người

bệnh có nguy cơ tử vong. Đây là lý do các

phòng cấp cứu thường sử dụng nhóm máu O

vì nó không có kháng nguyên để tấn công.

Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm que

thử trên 3.550 mẫu máu. Kết quả là mức độ

chính xác của que thử lên đến 99,99% và thời

gian cho kết quả trung bình chỉ là 30 giây.

Các nhà nghiên cứu tin rằng que thử mới có

thể hữu ích nhất trong vùng chiến sự hoặc

trong các nước có các cơ sở y tế còn hạn chế.

Nhiều thử nghiệm sẽ phải được thực hiện,

nhưng nhóm nghiên cứu tin rằng que thử sẽ

có mặt trên thị trường trong vòng hai năm tới.

Theo vista.gov.vn, 20/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Nga tìm ra phương pháp mới chẩn đoán bệnh ở trẻ sinh non

Nguồn: sputniknews.com

Các nhà khoa học Nga đã tìm ra phương

pháp mới có thể chẩn đoán từ xa tình trạng sức

khỏe của trẻ sơ sinh thiếu tháng bằng hơi thở.

Trả lời phỏng vấn đài Sputnik, Trưởng

Bộ môn vật lý sinh học phân tử thuộc Đại học

Vật lý và Công nghệ Moskva (MIPT), ông

Igor Popov cho biết nhóm các nhà khoa học

của trường đã tìm ra phương pháp chẩn đoán

bệnh tiên tiến nhất.

Theo đó, họ sử dụng phương pháp khối

phổ (mass spectrometry-MS) hơi thở và nước

tiểu để nghiên cứu các phân tử, bao gồm vật

lý phân tử và các quá trình xảy ra trong cơ

thể, từ đó giúp phát hiện các bệnh lý và áp

dụng những phương pháp điều trị khẩn cấp

một cách phù hợp.

Trên thực tế, các trẻ sinh non 2 tháng

thường phải đối mặt với những căn bệnh

tưởng chừng như đơn giản, nhưng có thể tiềm

ẩn nguy cơ tử vong cao.

Ông Popov khẳng định các bệnh viện ở

Nga cũng như ở nước ngoài chưa từng áp

dụng bất kỳ phương pháp nào tương tự

phương pháp chẩn đoán bệnh nói trên.

Ngoài ra, theo ông Popov, nhóm nhà

khoa học MIPT cùng Trung tâm Sản khoa,

Phụ khoa và Nhi khoa Kulakov, cũng đã phát

triển một phương pháp mới phân tích nước

tiểu của phụ nữ mang thai giúp xác định thai

thường hay thai bệnh lý trong những tháng

đầu của thai kỳ.

Phương pháp này - giúp việc sinh

thường dễ dàng hơn, từ đó trẻ sinh ra cũng sẽ

khỏe mạnh hơn - đã được trao "Giải thưởng

Moskva dành cho nhà khoa học trẻ.

Theo vietnamplus.vn, 21/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 13: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

13

Phương pháp sinh hóa mới chẩn đoán chính xác chứng tự kỷ ở trẻ em

Rối loạn phổ tự kỷ ảnh hưởng đến nhiều

trẻ em trên toàn cầu và ở Hoa Kỳ. Các chuyên

gia từ lâu đã thừa nhận tầm quan trọng của

việc phát hiện bệnh tự kỷ sớm, nhưng các

công cụ chẩn đoán hiện tại hầu như mang tính

hành vi và không hoàn toàn chính xác. Một

nghiên cứu mới, đề xuất phương pháp sinh

học để dự đoán chính xác liệu một đứa trẻ sẽ

tiếp tục phát triển chứng tự kỷ.

Trên toàn thế giới, rối loạn phổ tự kỷ

(ASD) ước tính ảnh hưởng đến 1,5% tất cả trẻ

em,1 trong số 68 trẻ em ở Hoa Kỳ được chẩn

đoán mắc bệnh ASD vào năm 2014. Số lượng

chẩn đoán ASD đã tăng mạnh trong vài thập

kỷ qua và tại Hoa Kỳ, ước tính cho thấy 30%

số trẻ em bị ASD tăng so với những năm

trước. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa

bệnh (CDC) làm nổi bật tầm quan trọng của

việc phát hiện sớm ASD. Tuy nhiên, hầu hết

các phương pháp chẩn đoán hiện tại và các

công cụ tâm lý dựa hoàn toàn vào việc phát

hiện các dấu hiệu hành vi.

Nghiên cứu từ Học Viện Bách khoa

Rensselaer ở New York xác định một phương

pháp mới để dự đoán xem đứa trẻ có rối loạn

phổ tự kỷ dựa trên các chất có thể phát hiện ra

trong máu hay không. Nghiên cứu do Juergen

Hahn và Daniel Howsmon dẫn đầu đã được

công bố trên tạp chí PLOS Computational

Biology.

Nhóm nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ

các mẫu máu của 83 trẻ tự kỷ và 76 trẻ tự kỷ

thuộc nhóm thần kinh phát triển khá bình

thường nghĩa là chúng không bị ảnh hưởng bởi

rối loạn phổ tự kỷ. Dữ liệu ban đầu được thu

thập là một phần của nghiên cứu IMAGE được

thực hiện bởi Viện Nghiên cứu Bệnh viện Nhi

đồng Arkansas. Nghiên cứu được thực hiện ở

trẻ từ 3 đến 10 tuổi, các nhà khoa học đã tiến

hành đo nồng độ các chất chuyển hóa từ hai

quá trình trao đổi chất: quá trình trao đổi chất

cacbon phụ thuộc vào folate và quá trình

chuyển hóa (the folate-dependent one-carbon

(FOCM) metabolism and transsulfuration (TS)

pathways). Các nhà khoa học đã phát triển các

mô hình thống kê đa biến, phân loại chính xác

trẻ em bị chứng tự kỷ dựa vào tình trạng thần

kinh của chúng. Họ cũng lưu ý rằng các mô

hình "có khả năng dự đoán tốt hơn nhiều so

với bất kỳ phương pháp tiếp cận hiện tại nào

từ các tài liệu khoa học”. Sử dụng các công cụ

này, Juergen Hahn và nhóm đã xác định chính

xác 97.6% trẻ em bị chứng tự kỷ và 96.1%

những trẻ tự kỷ thuộc nhóm thần kinh phát

triển khá bình thường.

Các tác giả kết luận: Mức độ chính xác

về phân loại cũng như mức độ dự đoán

nghiêm trọng, vượt xa các phương pháp khác

trong lĩnh vực này và là chỉ số tốt cho thấy

các chất chuyển hóa được xem xét có liên

quan chặt chẽ với chẩn đoán rối loạn phổ tự

kỷ. Tuy nhiên, Juergen Hahn cũng thừa nhận

rằng cần có thêm nhiều nghiên cứu để khẳng

định kết quả. Trong tương lai, các nhà nghiên

cứu sẽ nghiên cứu khả năng phát triển các

liệu pháp quá trình trao đổi chất cacbon phụ

thuộc vào folate và quá trình chuyển hóa ((the

folate-dependent one-carbon (FOCM)

metabolism and transsulfuration (TS)

pathways) có thể làm giảm các triệu chứng

của rối loạn phổ tự kỷ.

Theo vista.gov.vn, 22/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 14: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

14

Thuốc evolocumab mới hiệu quả hơn statin trong việc cắt giảm mức cholesterol

Một loại thuốc mới được gọi là

evolocumab đã được tìm thấy có hiệu quả

hơn các statin thường được kê đơn để cắt

giảm mức cholesterol xấu và làm giảm nguy

cơ đau tim và đột quỵ. Kết quả tích cực của

thử nghiệm quốc tế này có nghĩa là thuốc có

thể sớm được sử dụng bởi hàng triệu người.

Khoảng 15 triệu người chết mỗi năm do

các cơn đau tim hoặc đột quỵ. Cholesterol

dẫn đến mạch máu bị đóng cặn vôi, trở nên dễ

tắc nghẽn làm tim hoặc não thiếu oxy nghiêm

trọng. Đó là lý do tại sao hàng triệu người

dùng thuốc có tên là statin để giảm lượng

cholesterol xấu.

Thuốc mới - evolocumab - làm thay đổi

cách hoạt động của gan và cũng làm giảm

cholesterol xấu. Giáo sư Peter Sever, đến từ

Đại học Hoàng gia Luân Đôn ở Anh, cho biết

evolocumab hiệu quả hơn nhiều so với statin.

Ông đã tổ chức một phần cuộc thử nghiệm

diễn ra tại Anh với sự tài trợ của Công ty

dược phẩm Amgen.

Sever nói rằng kết quả cuối cùng của

các thử nghiệm cho thấy cholesterol giảm

xuống mức chưa từng thấy trong thực hành y

học trước đó. Các bệnh nhân trong thử

nghiệm đã dùng statin và giảm được nguy cơ

thêm nhờ liệu pháp mới.

"Sẽ giảm 20% nguy cơ nữa và đó là một

hiệu quả lớn. Đây có thể là kết quả thử nghiệm

quan trọng nhất của thuốc hạ cholesterol

trong hơn 20 năm", ông nhận định thêm.

Kết quả này đã được công bố trên Tạp

chí Y học New England và cũng báo cáo tại

một hội nghị của Trường Tim mạch Hoa Kỳ.

Nghiên cứu cho thấy một cơn đau tim

hoặc đột quỵ đã được ngăn ngừa với mỗi một

trong số 74 bệnh nhân dùng thuốc trong thử

nghiệm hai năm. Nhưng vẫn còn quá sớm để

biết liệu thuốc có cứu sống được hay không.

Evolocumab là một kháng thể giống như

các loại vũ khí được sử dụng bởi hệ thống

miễn dịch để chống lại nhiễm trùng. Tuy

nhiên, nó được thiết kế để nhắm mục tiêu một

protein trong gan có tên là PCSK9. Nó cuối

cùng làm cho cơ quan này tốt hơn trong việc

loại bỏ cholesterol xấu ra khỏi máu và vô

hiệu hóa chúng.

Các thử nghiệm khác cho thấy các

kháng thể như vậy đã làm giảm mức

cholesterol xấu xuống 60% và Amgen không

phải là công ty duy nhất xem xét cách tiếp

cận này. Kháng thể được tiêm vào da hai đến

bốn tuần một lần.

Tuy nhiên, Sever cho biết loại thuốc này

sẽ không thay thế các statin, vì có rất nhiều

người có mức cholesterol thực sự khá cao và

có thể cần dùng nhiều hơn một loại thuốc

giảm mức cholesterol.

Chi phí thuốc thay đổi. Tuy nhiên, ở

Anh, nơi nó đã được trao cho những người

không đáp ứng với statin, nó được Dịch vụ Y

tế quốc gia (NHS) tính giá là khoảng 2.000

bảng mỗi năm cho mỗi bệnh nhân.

Theo vista.gov.vn, 23/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 15: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

15

Loại máy ảnh thay thế thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử có khả năng quét võng mạc

Loại máy ảnh thay thế thuốc nhỏ mắt

làm giãn đồng tử có khả năng quét võng mạc

Người bệnh khi đi khám mắt thường

được yêu cầu nhỏ một loại thuốc có tác dụng

làm giãn đồng tử. Loại thuốc này thường gây

cảm giác đau nhói ở mắt và đặc biệt phải mất

một thời gian ngắn thuốc mới phát huy tác

dụng. Thậm chí, mắt người bệnh bị mờ trong

suốt nhiều giờ sau khi nhỏ thuốc, khiến họ

cảm thấy khó chịu và bất tiện. Tuy nhiên, một

nhóm các nhà khoa học đến từ trường Đại học

Illinois và Trường Y Harvard/Massachusetts

Eye & Ear đã vừa phát triển thành công một

thiết bị đặc biết để thay thế thuốc nhỏ mắt làm

giãn đồng tử, đó là một loại máy ảnh có khả

năng quét võng mạc.

Thông thường, khi đi khám mắt, bệnh

nhân trước hết sẽ được yêu cầu nhỏ một loại

thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử để giữ cho

mắt luôn mở to và có thể nhìn lâu vào một

điểm cố định, từ đó, bác sĩ nhãn khoa có thể

dễ dàng quan sát võng mạc. Trong trường hợp

nếu không được nhỏ thuốc, khi muốn quan

sát võng mạc, các cơ trong mống mắt sẽ co

lại, khiến đồng tử đóng lại khi mắt tiếp xúc

với một nguồn ánh sáng mạnh.

Loại máy ảnh mới có thiết kế giúp khắc

phục những hạn chế của thuốc nhỏ mắt làm

giãn đồng tử, hoạt động bằng cách chiếu

chùm tia ánh sáng hồng ngoại hướng thẳng

vào võng mạc của bệnh nhân. Vì mống mắt

không phản ứng với ánh sáng hồng ngoại nên

đồng tử vẫn mở, do đó, máy ảnh có thể dễ

dàng chụp lại hình ảnh mắt bệnh nhân bằng

một đèn flash trắng.

Mặc dù hiện nay trên thị trường có

nhiều loại máy ảnh khác tương tử cũng hoạt

động bằng cachs sử dụng chùm ánh sáng

hồng ngoại hoặc ánh sáng trắng để quét mắt

nhưng giá thành của chúng lại tương đối cao.

Trong khi đó, thiết bị mới được đánh giá là có

thiết kế nhỏ xinh, vừa đủ để có thể đựng trong

túi, mang theo người và được sản xuất cùng

với những linh kiện bao gồm máy vi tính

Raspberry Pi 2, máy ảnh hồng ngoại có giá

thành phải chăng, màn hình LCD, đèn LED

hồng ngoại và ánh sáng trắng, tổng chi phí

cho sản phẩm ước tính là khoảng 185 USD.

TS. Bailey Shen của U Illinois cho biết:

"Hiện thiết bị mới chỉ là một nguyên mẫu thử

nghiệm, nhưng thiết kế mới cho thấy việc chế

tạo và phát triển loại máy ảnh với giá thành

phải chăng có khả năng chụp ảnh võng mạc

hiệu quả mà không cần sử dụng thuốc giãn

đồng tử là hoàn toàn khả thi. Trong tương lai

gần, có thể thiết bị đặc biệt này hay một vật

gì đó tương tự sẽ là một vật dụng không thể

thiếu đối với bác sĩ nhãn khoa cũng như các

bác sĩ chuyên ngành khác”.

Shen và đồng tác giả là TS. Shizuo Mukai

đã mô tả chi tiết việc chế tạo và phát triển loại

máy ảnh mã nguồn mở trong bài báo mới đây

được công bố trên Tạp chí Nhãn khoa.

Theo vista.gov.vn, 24/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Các nhà khoa học Anh đạt được đột phá về bệnh lao đầu tiên trên thế giới

Các nhà nghiên cứu ở Oxford và

Birmingham cho biết họ có thể cô lập các

chủng khác nhau của bệnh này bằng cách sử

dụng phương pháp giải trình tự bộ gen. Sự

đột phá này có nghĩa là những bệnh nhân

đáng phải chờ đợi hàng tháng để có được

Page 16: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

16

thuốc đúng cách có thể được chẩn đoán chỉ

trong vài ngày - vì vậy họ có cơ hội phục hồi

tốt hơn.

Bộ trưởng Y tế Jeremy Hunt tuyên bố

bước đột phá này "sẽ cứu mạng sống" cho

nhiều người. Các ca bệnh lao ở Anh đã bắt

đầu giảm trong thời gian gần đây, nhưng

nước Anh vẫn có một trong những tỷ lệ cao

nhất ở châu Âu. Các nhà khoa học đã thực

hiện khám phá này cho biết trình tự bộ gen sẽ

cho phép họ xác định ADN của các mẫu khác

nhau chỉ trong hơn một tuần. Chẩn đoán

nhanh chóng có nghĩa là bệnh nhân có thể bắt

đầu phục hồi nhanh hơn và cũng làm giảm

nguy cơ nhiễm trùng lây lan.

Giáo sư vi sinh vật học Grace Smith hứa

hẹn: "Chúng tôi có thể cung cấp thông tin về

các loài sinh vật và các loại thuốc có thể

kháng bệnh lao”. Bộ Y tế Công cộng Anh cho

hay đây là lần đầu tiên bất cứ ai trên thế giới

áp dụng kỹ thuật trên quy mô lớn như vậy.

Sự đột phá này đạt được sau khi các

chuyên gia cảnh báo rằng sự gia tăng các

dòng lao kháng thuốc đang đe doạ sẽ làm

hỏng các nỗ lực loại trừ căn bệnh này.

Giáo sư Hunt cho biết thêm: "Nếu chúng

ta có thể chứng minh rằng sử dụng công nghệ

hiện đại nhất có thể giúp giảm thời gian để

xác định ai đã mắc bệnh lao và đưa họ vào

chương trình điều trị, chúng ta có thể tiến

gần hơn đến những gì tất cả chúng ta muốn,

đó là loại trừ bệnh lao trong nước”.

Theo vista.gov.vn, 28/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Da năng lượng mặt trời có thể giúp chân tay giả cảm nhận được va chạm

Các kỹ sư thuộc Đại học Glasgow đã

phát triển một loại da tổng hợp có thể giúp

những người tàn tật lấy lại xúc giác. Được

bao bọc bởi graphene, một dạng graphite chỉ

dày bằng một nguyên tử nhưng cứng hơn

thép, "da điện tử" thậm chí còn sử dụng các

pin quang điện để thu năng lượng từ mặt trời.

"Điều này có thể cho phép tạo ra một chân tay

giả tự động hoàn toàn về năng lượng",

Ravinder Dahiya, trưởng nhóm Công nghệ

cảm biến và điện tử Bendable của Trường Kỹ

thuật và là tác giả của bài báo về chủ đề này

được đăng trên tạp chí Advanced Functional

Materials số ra mới đây.

Graphene và pin năng lượng mặt trời là

nền tảng lý tưởng do những đặc tính vật lý

độc đáo của graphene, ví dụ, độ trong suốt

quang học của vật liệu cho phép 98 phần trăm

ánh sáng chạm tới bề mặt của nó đi qua.

Graphene cũng dẫn điện, có nghĩa là nó có

thể truyền năng lượng tới cảm biến đo các

thuộc tính như nhiệt độ, áp suất và kết cấu.

Theo Dahiya: "Những phép đo này cho

biết tay giả có thể thực hiện những nhiệm vụ

đầy thách thức như cầm nắm vật liệu mềm

một cách hợp lý, mà các bộ phận giả khác

khó thực hiện”.

Do loại da mới chỉ cần 20 nanowatts

điện trên mỗi cm vuông, ngay cả các pin

quang điện được đánh giá thấp nhất trên thị

trường cũng đủ khả năng để sử dụng. Năng

lượng được tạo ra bởi các pin của da hiện nay

không thể trữ được, tuy nhiên các nhà nghiên

cứu đang tìm hiểu các phương thức chuyển

đổi năng lượng bất kỳ không được sử dụng

vào pin, để có thể lấy ra vào một thời điểm

sau đó.

Các nhà khoa học ở Anh đã có một bước đột phá đầu tiên trên thế giới về chẩn đoán bệnh lao (TB).

Page 17: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

17

Ngoài ứng dụng cho các bộ phận chân

tay giả, đột phá này có thể thúc đẩy những

tiến bộ của robot học - một lợi ích cho thế

giới tự động hóa. "Da có khả năng cảm ứng

nhạy cảm cũng mở ra tiềm năng để tạo ra các

robot mang lại sự an toàn cho con người". Ví

dụ, một robot làm việc trên dây chuyền xây

dựng sẽ không có khả năng gây thương tích

cho con người nếu nó có thể cảm nhận được

một người bất ngờ bước vào khu vực di

chuyển của nó và dừng lại trước khi có thể

gây ra thương tích.

Theo vista.gov.vn, 28/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Phương pháp điều trị mới cho những người bị liệt toàn thân

Ngày 28/3, các nhà nghiên cứu thuộc

Đại học Case Western Reserve của Mỹ lần

đầu tiên công bố báo cáo cho biết một người

đàn ông Mỹ tham gia phương pháp điều trị

mới đã có thể tự ăn uống sau thời gian gần

một thập kỷ bị liệt từ vai trở xuống do tai nạn

xe đạp.

Báo cáo đăng trên tạp chí y khoa Lancet

cho biết theo phương pháp mới, thay vì điều

trị chấn thương cột sống, dây điện, các điện

cực và phần mềm vi tính đã được sử dụng để

tái tạo các kết nối quan trọng giữa não và cơ

của bệnh nhân.

Theo ông Bolu Ajiboye, người đứng đầu

nhóm nghiên cứu, đây là lần đầu tiên, một

người bị liệt nghiêm trọng trong nhiều năm có

thể trực tiếp sử dụng não bộ để cử động chân

tay của chính mình, cũng như thực hiện các

cử động chức năng khác.

Mặc dù thiết bị cấy ghép vẫn cần được

thử nghiệm thêm, nhưng các nhà nghiên cứu

hy vọng trong tương lai nghiên cứu của họ sẽ

giúp những người bị liệt tự làm được những

công việc đơn giản hàng ngày.

Cũng theo ông Ajiboye, hệ thống này

cần tiếp tục được cải tiến như sử dụng các

thiết bị không dây, tăng tuổi thọ và hiệu quả

sử dụng các thiết bị cấy ghép trong não bộ.

Công nghệ này sẽ tạo tiền đề cho tiêu chuẩn

chăm sóc y tế đối với những người bị liệt

hoàn toàn trong nhiều năm.

Ông Bill Kochevar, 56 tuổi, là bệnh

nhân duy nhất tham gia nghiên cứu, đã được

cấy ghép hai điện cực có kích thước bằng

viên thuốc aspirin dành cho trẻ em vào đầu để

đọc tín hiệu não bộ, sau đó được một máy

tính "dịch lại.'

Các cơ của bệnh nhân sau đó nhận được

các chỉ dẫn từ các điện cực đặt trên cánh tay.

Để thắng được trọng lực vốn có xu

hướng kéo các chi xuống, bệnh nhân

Kochevar phải sử dụng một thiết bị hỗ trợ di

động cũng do não bộ điều khiển. Sau khoảng

10 năm nằm bất động, đến nay Kochevar đã

có thể nhâm nhi cốc cà phê, gãi mũi và ăn

khoai tây nghiền trong các bài kiểm tra của

phòng thí nghiệm.

Từ năm 2014, sau khi các điện cực được

cấy ghép vào cơ thể, ông Kochevar phải học

cách sử dụng các bộ phận cấy ghép bắt đầu

bằng việc luyện tập mô phỏng một cánh tay

xuất hiện trên màn hình. Từ đó, ông có thể

học cách sử dụng ý nghĩ của mình để điều

khiển các cử động của cánh tay. Ông

Kochevar cho biết đối với những người bị liệt

8 năm và không thể cử động thì cử động dù

chỉ là chút ít cũng là điều tuyệt vời.

Theo các nhà khoa học, nghiên cứu này

là sự đột phá, nhưng vẫn còn nhiều việc phải

làm trước khi những thiết bị cấy ghép này

được sử dụng rộng rãi. Bên cạnh đó, công

nghệ này cũng có những hạn chế như bệnh

nhân luôn phải nhìn vào cánh tay của mình để

Page 18: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

18

có thể điều khiển nó. Điều này là do bệnh

nhân đã mất cảm giác về vị trí và chuyển

động của phần dưới cơ thể hay còn gọi là mất

cảm nhận trong cơ thể do bại liệt.

Hiện các nhà khoa học vẫn đang nghiên

cứu phương pháp điều trị các tổn thương cột

sống vốn gây ra chứng bại liệt. Vào thời điểm

hiện tại, các nhà nghiên cứu đang phát triển

giải pháp "làm việc vòng tròn" giúp kết nối

não bộ với hệ cơ.

Cũng theo nhóm nghiên cứu, các thiết bị

cấy ghép cũng từng được sử dụng trước đây.

Trong báo cáo công bố năm ngoái, các điện

cực được cấy dưới da đã giúp Ian Burkhart,

một người Mỹ, bị liệt nhẹ đã có thể cử động

tay. Ngoài ra, còn có các phương pháp khác

cho phép người tham gia sử dụng ý nghĩ của

mình điều khiển cánh tay rôbốt.

Theo vietnamplus.vn, 29/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Tìm ra phương pháp mới chữa u não mà không cần phẫu thuật

Ảnh chỉ có tính minh họa. (Nguồn: indexsmart.mirasmart.com)

Nhà chức trách Hàn Quốc ngày 28/3

thông báo một nhóm nhà khoa học của nước

này vừa tìm ra phương pháp mới không cần

phẫu thuật mà vẫn có thể đưa thuốc vào các

khối u trong não bộ, mở ra cơ hội điều trị mới

cho người bệnh.

Theo đó, các nhà khoa học đã phát triển

phương pháp mở hàng rào máu não để có thể

tiêm thuốc "doxorubicin" vào khối u ở não bộ.

Họ cũng sử dụng phương pháp chụp

cộng hưởng từ DCE-MRI để thấy rõ những

thay đổi sóng siêu âm hội tụ từ trong một khối

u thần kinh đệm và trong não bộ thông thường.

Phương pháp này cũng giúp xác định

mối liên hệ giữa những thay đổi nói trên với

kết quả thu được từ chất hóa học trị liệu

doxorubicin.

Trước đây, việc đưa thuốc vào các khối

u não vốn được xem là thách thức lớn bởi sự

hiện diện của "hàng rào máu não" - một lớp tế

bào nội mô đóng vai trò như rào chắn, ngăn

chặn những phần tử nhất định, bao gồm tế

bào miễn dịch, virus, đi từ máu vào hệ thần

kinh trung ương.

Trưởng nhóm nghiên cứu Park Joo-

yeong thuộc Quỹ phát minh y học Daegu-

Gyeongbuk, khẳng định đây là một công nghệ

mới giúp tăng hiệu quả điều trị bằng cách mở

hàng rào máu não, trong khi nhiều loại thuốc

trên thị trường dược phẩm hiện nay vẫn chưa

thể vượt qua "rào chắn" này.

Bộ Khoa học, Thông tin truyền thông và

Hoạch địch tương lai Hàn Quốc là đơn vị tài

trợ triển khai nghiên cứu nói trên và kết quả

công trình này đã được đăng tải trên ấn phẩm

số ra mới nhất của Tạp chí "Journal of

Controlled Release"

Theo vietnamplus.vn, 28/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 19: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

19

Phản ứng được thúc đẩy bởi ánh sáng chuyển đổi CO2 thành nhiên liệu

Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học

Duke đã tạo ra các hạt nano nhỏ giúp chuyển

đổi CO2 thành khí metan mà chỉ sử dụng ánh

sáng cực tím làm nguồn năng lượng.

Thông qua việc phát hiện ra một chất

xúc tác có thể làm điều này bằng ánh sáng

cực tím, nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ phát

triển được một phiên bản hoạt động bằng ánh

nắng mặt trời tự nhiên, một lợi ích tiềm năng

cho năng lượng thay thế.

Từ lâu, các nhà hóa học đã tìm kiếm

một chất xúc tác hiệu quả sử dụng ánh sáng

để cung cấp năng lượng cho phản ứng biến

đổi CO2 thành metan - một thành phần chính

cho nhiều loại nhiên liệu nhằm giảm lượng

CO2 ngày càng tăng trong khí quyển.

Các hạt nano rhodium không chỉ hoạt

động hiệu quả hơn khi được chiếu ánh sáng,

mà chúng còn tạo thành metan chứ không

phải hỗn hợp metan và các sản phẩm phụ

không mong muốn như CO. Tính "chọn lọc"

mạnh mẽ này của khả năng xúc tác bằng ánh

sáng cũng có thể mở rộng sang các phản ứng

hóa học quan trọng khác.

Jie Liu, giáo sư hóa học tại Đại học

Duke cho rằng: "Thực tế bạn có thể sử dụng

ánh sáng để tác động đến con đường phản

ứng cụ thể là rất thú vị. Phát hiện này thực sự

sẽ nâng cao hiểu biết về quá trình xúc tác".

Mặc dù là một trong những nguyên tố

hiếm nhất trên Trái đất, nhưng rhodium đóng

vai trò quan trọng đáng ngạc nhiên trong cuộc

sống hàng ngày của chúng ta. Một lượng nhỏ

kim loại màu xám bạc có thể được sử dụng để

tăng tốc hoặc "xúc tác" một số quy trình công

nghiệp trọng điểm, bao gồm cả các quy trình

sản xuất thuốc, chất tẩy rửa và phân bón nitơ

và chúng thậm chí còn giữ vai trò quan trọng

trong việc phân tách các chất ô nhiễm độc hại

trong các bộ chuyển đổi xúc tác của ô tô.

Rhodium tăng tốc độ của các phản ứng

thông qua việc bổ sung năng lượng, thường đi

kèm dưới dạng nhiệt vì nó có thể dễ dàng

được sản xuất và hấp thu. Tuy nhiên, nhiệt độ

cao cũng gây ra sự cố như tuổi thọ của chất

xúc tác ngắn và quá trình tổng hợp nên các

sản phẩm ngoài mong đợi.

Trong hai thập kỷ qua, các nhà khoa học

đã khám phá phương thức mới và hữu ích mà

ánh sáng có thể được sử dụng để bổ sung

năng lượng cho những mảnh kim loại thu nhỏ

còn kích thước nano, một lĩnh vực được gọi là

plasmon.

Henry Everitt, giáo sư vật lý tại Đại học

Duke nói: "Các hạt nano kim loại plasmon

hoạt động hiệu quả như một ăng-ten nhỏ hấp

thụ ánh sáng nhìn thấy hoặc ánh sáng cực tím

rất hiệu quả và có thể tác động để tạo ra điện

trường mạnh. Trong vài năm gần đây, mọi

người đã thừa nhận tính chất này có thể được

áp dụng cho xúc tác".

Theo Xiao Zhang, nghiên cứu sinh tại

phòng thí nghiệm của GS. Jie Liu, các khối

nano rhodium tổng hợp có kích thước tối ưu

để hấp thụ ánh sáng cực tím gần. Sau đó, ông

đã đặt một lượng nhỏ hạt nano có màu như

vào trong buồng phản ứng và cho hỗn hợp

CO2 và hydro qua vật liệu dạng bột.

Khi ông Zhang làm nóng các hạt nano ở

mức 300 độ C, phản ứng đã tạo ra một hỗn

hợp tương đương như của khí metan và khí

độc CO. Tuy nhiên, khi hạ nhiệt và thay vào

đó chiếu sáng chúng bằng đèn LED cực tím

công suất cao, thì thật đáng ngạc nhiên CO2

và hydro đã phản ứng ở nhiệt độ phòng và

phản ứng đó hầu như chỉ tạo ra metan.

GS. Everitt nói: "Chúng tôi phát hiện ra

rằng khi chiếu sáng trên các cấu trúc nano

rhodium, chúng tôi có thể buộc phản ứng hóa

học diễn ra theo hướng như mong đợi. Vì vậy,

chúng tôi có thể chọn cách phản ứng diễn ra

Page 20: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

20

với ánh sáng theo cách mà chúng tôi không

thể làm với nhiệt".

Tính chọn lọc này - khả năng kiểm soát

phản ứng hóa học để tạo ra sản phẩm mong

muốn với ít hoặc không có phụ sản phẩm, là

một yếu tố quan trọng trong việc xác định chi

phí và tính khả thi của các phản ứng quy mô

công nghiệp.

Theo ông Zhang, nếu phản ứng chỉ có

tính chọn lọc ở mức 50%, thì chi phí sẽ tăng

gấp đôi so với tính chọn lọc là gần 100%. Và

nếu tính chọn lọc rất cao, bạn cũng có thể tiết

kiệm thời gian và năng lượng không chỉ bằng

cách làm sạch sản phẩm.

Nhóm nghiên cứu dự định sẽ kiểm tra

xem liệu kỹ thuật hoạt động bằng ánh sáng

của họ có thể thúc đẩy các phản ứng khác,

hiện đã được xúc tác bằng kim loại rhodium

nóng. Bằng cách tinh chỉnh kích thước của

các hạt nano rhodium, các nhà khoa học cũng

hy vọng phát triển một phiên bản chất xúc tác

được cung cấp năng lượng bằng ánh nắng mặt

trời, bằng cách tạo ra một phản ứng hoạt động

bằng năng lượng mặt trời có thể được tích

hợp vào các hệ thống năng lượng tái tạo.

Theo vista.gov.vn, 06/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Mexico phát triển thành công loại xi măng mới sử dụng công nghệ nano

Các chuyên gia khoa học của Trung tâm

Nghiên cứu và Đổi mới công nghệ thuộc Viện

Bách khoa quốc gia Mexico đã phát triển

thành công một loại xi măng chất lượng cao,

sử dụng công nghệ nano.

Chuyên gia Sebastián Díaz de la Torre

cho biết loại vật liệu mới này, được đặt tên

Pórtland, nghiên cứu dựa trên công nghệ nano

của gốm sứ cao cấp có độ bền cao, đông cứng

nhanh và siêu lỏng.

Portland có chứa các hạt nano và các hạt

siêu nhỏ nâng cấp, giúp tăng độ bền và chịu

lực so với gốm truyền thống. Sử dụng loại xi

măng mới này sẽ giúp bê tông có cường độ

chịu lực 550 kg/cm2 trong ngày đầu tiên và

đạt tới 1.050 kg/cm2 trong vòng 28 ngày, cao

hơn nhiều so với độ chịu lực 250-400 kg/cm2

của xi măng thông thường.

Xi măng Pórtland sở hữu công thức lý-

hóa duy nhất cho phép cải thiện hiệu suất và

tính chất cấu trúc xây dựng. Với các đặc tính

vượt trội, Portland là một loại vật liệu lý

tưởng để dùng cho các công trình hạ tầng như

đường băng, đường hầm, lát-vá vỉa hè, đường

dốc, kè, các tòa nhà cao tầng và ngành công

nghiệp khai thác mỏ.

Mexico được biết đến như một trong

những nhà sản xuất xi măng và vật liệu xây

dựng hàng đầu thế giới, nhờ đầu tư sâu trong

nghiên cứu vật liệu.

Theo vatlieuxaydung.org.vn, 06/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Gốm bền vững không cần nung

Sản xuất xi măng, gạch, đá lát nhà tắm

và đồ sành sứ thường cần có nhiệt độ cao, cụ

thể phải sử dụng lò để nung vật liệu gốm ở

nhiệt độ trên 1.000°C. Giờ đây, các nhà khoa

học vật liệu tại ETH Zurich đã đưa ra một

phương thức sản xuất rất đơn giản hoạt động

ở nhiệt độ phòng. Nhóm nghiên cứu đã sử

dụng bột nano canxi cacbonat làm nguyên

liệu và thay vì nung nóng, họ đã bổ sung một

lượng nước nhỏ và sau cô đặc.

Page 21: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

21

Florian Bouville, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: "Quy trình sản xuất dựa vào quá

trình địa chất hình thành đá". Đá trầm tích

hình thành từ trầm tích, đã được nén trong

hàng triệu năm do áp lực từ các chất lắng đọng

phía trên. Quá trình này biến đổi trầm tích

canxi cacbonat thành đá vôi với sự hỗ trợ của

nước ở xung quanh. Khi các nhà nghiên cứu

tại ETH sử dụng canxi cacbonat có kích thước

hạt cực mịn (hạt nano) làm nguyên liệu đầu

vào, quá trình cô đặc chỉ mất một giờ. Nghiên

cứu là bằng chứng đầu tiên cho thấy một mảng

vật liệu gốm có thể được sản xuất ở nhiệt độ

phòng trong một khoảng thời gian rất ngắn và

với áp lực tương đối thấp.

Mạnh hơn bê tông

Các thử nghiệm cho thấy, loại vật liệu

mới có thể chịu được lực mạnh gấp khoảng

10 lần so với bê tông trước khi nó phá vỡ và

cũng cứng bằng đá hoặc bê tông. Cho đến

nay, nhóm nghiên cứu đã sản xuất được các

mẫu vật liệu có kích thước bằng một mẩu của

đồng tiền 1 franc bằng cách sử dụng máy ép

thủy lực thông thường như trong ngành công

nghiệp. "Thách thức là ở chỗ để tạo áp lực đủ

lớn cho quá trình cô đặc. Các phôi gia công

cỡ lớn cần một lực tương ứng lớn hơn",

Bouville nói. Theo các nhà khoa học, những

mảnh gốm có kích thước bằng đá nhỏ lát

phòng tắm về mặt lý thuyết có tính khả thi.

Hiệu quả năng lượng và thân thiện với

môi trường

André Studart, một trong các tác giả

nghiên cứu cho rằng: "Trong một thời gian

dài, các nhà khoa học vật liệu đã tìm cách để

sản xuất vật liệu gốm trong điều kiện dễ chịu

vì quá trình nung cần khối lượng lớn năng

lượng". Phương pháp mới ở nhiệt độ phòng

mà các chuyên gia gọi là nung kết lạnh, tiêu

thụ năng lượng hiệu quả hơn nhiều và cũng

cho phép sản xuất vật liệu composite có chứa

nhựa.

Kỹ thuật này cũng thu hút sự quan tâm

của xã hội không phát thải cacbon trong

tương lai. Cụ thể, các hạt nano cacbonat có

thể được sản xuất bằng CO2 từ khí quyển

hoặc từ các khí thải của nhà máy nhiệt điện.

Trong kịch bản này, CO2 thu giữ được phép

phản ứng với loại đá phù hợp ở dạng bột để

sản xuất cacbonat, sau đó, được sử dụng để

sản xuất gốm ở nhiệt độ phòng. CO2 tác động

xấu đến khí hậu, sẽ được lưu trữ trong các sản

phẩm gốm về lâu dài. Các sản phẩm này sẽ

thay thế cho bể chứa CO2 và giúp các nhà

máy nhiệt điện hoạt động trên cơ sở không

thải cacbon.

Theo các nhà khoa học, về lâu dài,

phương pháp mới nung kết lạnh thậm chí có

khả năng dẫn đến những lựa chọn thay thế

thân thiện hơn với môi trường cho vật liệu xi

măng. Tuy nhiên, cần có những nỗ lực nghiên

cứu trên quy mô lớn để đạt được mục tiêu

này. Sản xuất xi măng không chỉ tiêu tốn

nhiều năng lượng mà còn sản sinh khối lượng

lớn khí CO2 không giống vật liệu thay thế

được nung kết.

Theo vista.gov.vn, 07/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng hợp chất khung kim loại-hữu cơ để lọc hydro đồng vị nặng

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện

Max Planck đã phát triển được một hợp chất

khung kim loại-hữu có thể được sử dụng để

tách đơteri và triti từ hydro bình thường hiệu

quả hơn các phương pháp trước đây.

Page 22: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

22

Đơteri và triti là các chất của tương lai

nhưng chúng rất hiếm. Các đồng vị nặng của

hydro không chỉ có nhiều ứng dụng trong khoa

học mà còn có thể đóng góp cho hỗn hợp năng

lượng của tương lai như làm nhiên liệu tổng

hợp hạt nhân. Đơteri cũng có trong một số loại

thuốc, hiện đang được thông qua về mặt pháp

lý ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quá trình lọc đơteri ra

khỏi hỗn hợp đồng vị tự nhiên của hydro hiện

nay vừa khó khăn và tốn kém. Các nhà khoa

học tại Viện hệ thống thông minh Max Planck,

Viện Nghiên cứu trạng thái rắn Max Planck,

trường Đại học Leipzig, Đại học Bremen

Jacobs, Đại học Augsburg và Phòng thí

nghiệm quốc gia Oak Ridge (Hoa Kỳ) đã khắc

phục vấn đề này bằng cách tạo ra một hợp chất

khung kim loại - hữu cơ để tách hai đồng vị

hydro bình thường hiệu quả hơn các phương

pháp trước đây.

Trong các loại thuốc, đơteri gây ảnh

hưởng lâu dài đến cuộc sống. Hệ thống trao

đổi chất của con người phá vỡ các phân tử

chứa đồng vị đơteri, nặng gấp 2 lần hydro,

chậm hơn so với một chất tương tự kết hợp

với hydro bình thường. Do đó, thuốc chứa

đơteri có thể được dùng với liều lượng nhỏ

hơn, có nghĩa là các tác dụng phụ cũng giảm.

Đơteri, như triti đồng vị hydro phóng xạ nặng

hơn, cũng góp phần vào việc tổng hợp hạt

nhân. Quá trình này làm cho ngôi sao tỏa

sáng, một ngày nào đó có thể cung cấp nhiên

liệu cho các nhà máy điện hạt nhân, trong đó,

hạt nhân nguyên tử hợp nhất với nhau giải

phóng khối lượng lớn năng lượng trong quá

trình này.

Trong khi đó, đơteri chỉ được sử dụng

trong dược phẩm trong một thời gian ngắn và

có tiềm năng được sử dụng trong các nhà máy

điện trong tương lai, nhưng từ lâu đã được sử

dụng trong khoa học, ví dụ để theo dõi đường

đi của các chất dinh dưỡng thông qua hệ

thống trao đổi chất. Michael Hirscher, trưởng

nhóm nghiên cứu cho rằng: "Đơteri và triti có

ích trong một số ứng dụng. Tuy nhiên, đến

nay, rất khó tách đơteri từ hydro nhẹ".

Bộ lọc đơteri làm từ một khung kim loại

- hữu cơ tiết kiệm năng lượng

Đơteri thu được từ nước nặng, xuất hiện

trong nước tự nhiên ở nồng độ chỉ 15 phần

nghìn. Đầu tiên, nước nặng được tách ra bằng

cách kết hợp các phương pháp hóa học và vật

lý như chưng cất để thu khí đơteri. Toàn bộ

quá trình này rất phức tạp và tốn nhiều năng

lượng, trong đó 1g đơteri với độ tinh khiết

99,8% có chi phí khoảng 100 Euro.

Dirk Volkmer, đồng tác giả nghiên cứu

cho rằng: "Hợp chất khung kim loại - hữu cơ

của chúng tôi làm cho việc tách đơteri khỏi

hỗn hợp tự nhiên của các đồng vị hydro trở

nên dễ dàng và tiêu tốn ít năng lượng”. Trong

một khung kim loại - hữu cơ hay MOF ngắn,

các ion kim loại được liên kết bởi các phân tử

hữu cơ để tạo thành một tinh thể với các lỗ

tương đối lớn. Các chất này có thể hấp thụ một

lượng lớn khí tùy theo trọng lượng của chúng.

Trong hợp chất mà nhóm nghiên cứu đề

xuất sử dụng làm bộ lọc đơteri và triti, các ion

kẽm và đồng hình thành các nút kim loại. Từ

năm 2012, các nhà khoa học đã tạo ra một

hợp chất khung kim loại - hữu cơ chỉ chứa

kẽm như thành phần kim loại. Khung này có

thể lọc đơteri, nhưng chỉ ở nhiệt độ - 223oC.

Sử dụng đồng thay cho kẽm, bộ lọc có

thể được làm lạnh bằng nitơ lỏng

Các nhà hóa học tại Đại học Augsburg

đã thay thế một số nguyên tử kẽm bằng các

nguyên tử đồng, trong đó, vỏ của điện tử có

khả năng lọc có chọn lọc đơteri ở nhiệt độ

cao. Michael Hirscher và cộng sự của ông tại

Viện Hệ thống thông minh Max Planck và

các nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm

quốc gia Oak Ridge đã xác nhận tính chất này

trong nhiều thử nghiệm khác nhau. Trong đó,

họ đã xác định được số lượng đơteri và hydro

bình thường mà vật liệu hấp thụ từ hỗn hợp

các thành phần bằng nhau của hai đồng vị ở

Page 23: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

23

nhiệt độ khác nhau. Kết quả là ở nhiệt độ -

173oC, khả năng tích trữ của nó cao gấp 12

lần đơteri hơn. Ở mức nhiệt này, quá trình

tách có thể được làm lạnh bằng nitơ lỏng,

khiến nó hiệu quả hơn so với phương pháp

chỉ hoạt động ở - 200oC.

Khung kim loại - hữu cơ có thể hấp thụ

thậm chí nhiều khí hơn

Dữ liệu về đơteri và hydro bình thường

đã cho thấy các tính toán như dự báo thống

nhất với các kết quả thí nghiệm. Do đó, các

nhà lý thuyết tin rằng những tính toán đó

không thể dễ dàng được kiểm tra bằng thực

nghiệm, đúng ra là phù hợp. "Các tính toán

của chúng tôi cho triti chắc chắn là rất đúng.

Nhưng điều này chỉ có thể được xác nhận

bằng thực nghiệm theo các quy trình an toàn

nghiêm ngặt", Thomas Heine nói.

Vật liệu còn hấp thụ cả đồng vị hydro

phóng xạ rất hiệu quả từ hỗn hợp đồng vị. Đó

có thể là một tính chất hữu ích cho một ứng

dụng cụ thể, trong đó mục đích là không hấp

thụ mà là loại bỏ nó. Nước từ các nhà máy

điện hạt nhân - bao gồm nước làm ngập các lò

phản ứng Fukushima trong thảm họa 2011

chứa triti. Hợp chất khung kim loại - hữu cơ

mới có thể cung cấp một phương thức để xử

lý chất thải phóng xạ này, mặc dù nước nhiễm

phóng xạ đầu tiên phải trải qua quá trình điện

phân để chuyển đổi triti - có chứa các phân tử

nước thành khí hydro chứa triti. Tuy nhiên,

trước khi triti và đơteri có thể được lọc khỏi

hỗn hợp đồng vị bằng cách sử dụng các tinh

thể lỗ lớn, thì kỹ thuật này ít ra cần được tinh

chỉnh để hấp thụ nhiều khí.

Neutron lý tưởng để nghiên cứu khả

năng hấp phụ của hydro phân tử

Tán xạ Neutron là một công cụ rất nhạy

cảm để nghiên cứu chuyển động của hydro,

neutron cũng phân biệt các tín hiệu bắt nguồn

từ những đồng vị khác nhau như hydro và

đơteri. "Trong khung hữu cơ - kim loại, các

phân tử hydro hấp phụ trên nhiều vị trí khác

nhay bằng cách theo dõi các cụm hydro và

đơteri ở mỗi vị trí, neutron đã làm sáng tỏ

các cơ chế tách đồng vị", Timmy Ramirez-

Cuesta tại Phòng thí nghiệm quốc gia Oak

Ridge nói. Nghiên cứu đã sử dụng quang phổ

tầm nhìn của phòng thí nghiệm ORNL, loại

máy quang phổ neutron hóa học mạnh nhất

thế giới.

Theo vista.gov.vn, 07/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Hệ điều hành máy tính và bộ phim ngắn được lưu trữ trên ADN

Nhân loại có thể sớm tạo ra nhiều dữ

liệu hơn so với ổ cứng hoặc băng từ, một vấn

đề đưa các nhà khoa học đến việc chuyển đổi

sang giải pháp lâu đời của tự nhiên cho việc

lưu trữ thông tin - ADN.

Trong một nghiên cứu mới đăng trên tạp

chí Science, hai nhà nghiên cứu tại Trường

Đại học Columbia và Trung tâm bộ gen New

York đã chứng minh một thuật toán được

thiết kế để phát video trên điện thoại di động

có thể mở ra tiềm năng lưu trữ gần như đầy

đủ của ADN bằng cách nén nhiều thông tin

thành 4 nucleotide cơ sở của nó. Công nghệ

này được chứng minh rất đáng tin cậy.

ADN là một phương tiện lưu trữ lý

tưởng vì nó siêu nhỏ gọn và có thể tồn tại

hàng trăm nghìn năm nếu được cất giữ ở nơi

khô ráo và mát mẻ, như được minh chứng bởi

sự phục hồi gần đây của ADN từ xương của

tổ tiên người cổ đại 430.000 năm tuổi trong

một hang động ở Tây Ban Nha.

Yaniv Erlich, giáo sư khoa học máy tính

và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng: "ADN

Page 24: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

24

sẽ không bị hỏng theo thời gian như băng

cassette và đĩa CD và hơn nữa, sẽ không trở

nên lỗi thời. Nếu có là những vấn đề lớn hơn".

Nhóm nghiên cứu đã chọn 6 tập tin để

mã hóa hoặc viết trên ADN: một hệ điều hành

máy tính đầy đủ, một bộ phim Pháp năm

1895 có tên "Chuyến tàu đến La Ciotat", một

thẻ quà tặng của Amazon trị giá 50 USD, một

virus máy tính, một tấm bảng Pioneer và một

nghiên cứu năm 1948 của nhà lý thuyết thông

tin Claude Shannon.

Các nhà khoa học đã nén các tập tin

thành một tập tin chủ và sau đó chia dữ liệu

thành các chuỗi ngắn của mã nhị phân được

tạo thành từ các số 1 và 0. Sử dụng thuật toán

tẩy xoá gọi là mã nguồn, họ đã bao gói một

cách ngẫu nhiên các chuỗi thành những giọt

nhỏ và lập bản đồ các số 1 và 0 trong mỗi giọt

cho 4 nucleotide trong ADN: A, G, C và T.

Thuật toán đã xóa các chữ kết hợp được biết

là tạo ra lỗi và thêm một mã vạch cho từng

giọt để giúp lắp ghép các tập tin về sau này.

Nhìn chung, nhóm nghiên cứu đã lập

một danh sách số gồm 72.000 sợi ADN, mỗi

sợi dài 200 base và gửi nó dưới dạng một tập

tin bằng văn bản đến công ty khởi nghiệp

tổng hợp ADN San Francisco có tên là Twist

Bioscience, chuyên chuyển đổi dữ liệu số

thành dữ liệu sinh học. Hai tuần sau đó, các

nhà khoa học nhận được một lọ nhỏ chứa các

cụm phân tử ADN. Để lấy các tập tin đó,

nhóm nghiên cứu đã sử dụng công nghệ lập

trình tự hiện đại để đọc các sợi ADN, tiếp

theo là phần mềm dịch mã di truyền trở lại

dạng nhị phân. Kết quả là các tập tin đã được

khôi phục với sai số bằng không.

Các nhà khoa học cũng đã chứng minh

các bản sao của tập tin với số lượng không

hạn chế có thể được tạo ra nhờ kỹ thuật mã

hóa bằng cách nhân bản các mẫu ADN thông

qua phản ứng chuỗi polymerase (PCR) và các

bản sao đó và thậm chí các bản sao của những

bản sao đó… có thể được khôi phục mà

không bị lỗi.

Cuối cùng, chiến lược mã hóa của nhóm

nghiên cứu đã bao gói được 215 petabyte dữ

liệu trên 1g ADN - gấp hơn 100 lần so với

những phương pháp của các nhà nghiên cứu

tiên phong, đó là George Church tại Đại học

Harvard và Nick Goldman và Ewan Birney

tại Viện Tin sinh học châu Âu. "Chúng tôi tin

rằng đây là thiết bị lưu trữ dữ liệu có mật độ

cao nhất từ trước đến nay", Erlich nói.

Dung tích lưu trữ dữ liệu bằng ADN về

lý thuyết giới hạn trong hai chữ số nhị phân

cho mỗi nucleotide, nhưng những hạn chế

sinh học của bản thân ADN và sự cần thiết

phải tính đến thông tin không quan trọng để

lắp ghép lại và đọc các phân đoạn sau đó làm

giảm dung tích của nó đến 1,8 chữ số nhị

phân cho mỗi nucleotide cơ sở. Với kỹ thuật

ADN Fountain, Erlich và Zielinski đã bao gói

trung bình là 1,6 bit vào mỗi nucleotide cơ sở,

dung lượng dữ liệu lớn hơn ít nhất 60% so

với các phương pháp được công bố trước đây

và gần giới hạn 1,8 bit.

Chi phí vẫn là một rào cản. Các nhà

nghiên cứu đã dành 7.000 USD để tổng hợp

ADN được sử dụng để lưu trữ 2 MB dữ liệu

và thêm 2.000 USD để đọc nó. Mặc dù giá

thành của việc lập trình tự ADN đã giảm theo

cấp số nhân, nhưng sẽ không giống như tổng

hợp ADN. Nhưng giá thành tổng hợp ADN

có thể giảm mạnh nếu các phân tử chất lượng

thấp được tạo ra và việc mã hóa các chiến

lược như ADN Fountain được sử dụng để sửa

lỗi phân tử.

Theo vista.gov.vn, 08/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Phát minh tấm lợp chống nóng có chức năng như điều hòa nhiệt độ

Các nhà khoa học Mỹ mới công bố phát

minh mới về một vật liệu chống nóng có chức

năng giống như máy điều hòa nhiệt độ nhưng

lại không tiêu tốn năng lượng.

Page 25: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

25

Phó Giáo sư Xiaobo Yin thuộc trường

Đại học Colorado đánh giá, việc phát minh ra

tấm lợp mới là bước tiến quan trọng trong

công nghệ chống nóng của ngành xây dựng.

Trong bối cảnh hiệu ứng nhà kính cùng với

hơi nóng phát ra từ hệ thống máy điều hòa là

vấn đề đáng lo ngại hiện nay đối với nhiều

quốc gia trên thế giới.

Kính chống nóng được nghiên cứu sản xuất ngày càng tối ưu. (Ảnh minh họa: Internet)

Đây là một phát kiến mới và có tính khả

thi cao. Công nghệ mới ra đời không những

hữu ích trong việc đối phó với thời tiết nóng

bất thường hiện nay.

Điểm nổi bật đáng nói là sản xuất tấm

lợp này có chi phí thấp, nên người dân nghèo

cũng có khả năng tiếp cận với loại sản phẩm

này khi nó được đưa vào sản xuất đại trà.

Vật liệu chống nóng mới dạng kính

polime có độ dày 5 micromet và có trọng

lượng nhẹ hơn rất nhiều so với tấm lợp thông

thường.

Khi lợp tấm lợp trên mái nhà, sức nóng

từ ánh nắng mặt trời sẽ được hấp thụ làm cho

ngôi nhà sẽ trở nên mát mẻ hơn rất nhiều.

Theo vatlieuxaydung.org.vn, 08/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Sản xuất nhiên liệu sinh học từ vi tảo

Các nhà khoa học thuộc Viện Công

nghệ Tokyo đã xác định được các

acyltransferases axit lysophosphatidic độc

đáo như là các enzym chủ chốt để tổng hợp

nên triacylglycerol từ tảo Nannochloropsis

chứa dầu, nhờ đó đã phát hiện ra cơ chế sản

xuất nhiên liệu sinh học từ vi tảo.

Trong xã hội hiện đại, sản xuất năng

lượng phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhiên

liệu hóa thạch, dẫn đến ô nhiễm môi trường

và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên không tái

tạo. Các sinh vật quang hợp như thực vật và

tảo xanh có thể biến đổi CO2 trong khí quyển

thành các phân tử lưu trữ cacbon, đặc biệt là

các loại dầu như triacylglycerol (TAG), có

thể được sử dụng như nhiên liệu sinh học.

Trong bối cảnh này, tảo có lợi thế cung cấp

hàm lượng dầu cao và tăng trưởng trong các

môi trường khắc nghiệt, bao gồm độ mặn,

nhiệt độ, hoặc độ pH cao.

Nannochloropsis là một chi của vi tảo

có thể tích lũy TAG lên đến 50% trọng lượng

khô; tuy nhiên, các cơ chế về đặc điểm chứa

dầu của chúng vẫn đang là một bí ẩn.

Các nhà khoa học thuộc Viện Công

nghệ Tokyo do Giáo sư Hiroyuki Ohta dẫn

đầu đã giải quyết vấn đề này bằng cách

nghiên cứu sự chuyển hóa lipid ở

Nannochloropsis oceanica. TAG được tổng

hợp trong quá trình extraplastidic Kennedy

thông qua quá trình bổ sung theo tuần tự ba

nhóm chức gốc acyl béo thành khung

glycerol. Trong số các enzym tham gia, các

nhà khoa học tập trung vào bốn

acyltransferases axit lysophosphatidic (LPAT

1-4) chịu trách nhiệm bổ sung các axit béo ở

vị trí 2.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, về

khía cạnh phát sinh loài, LPAT1 và LPAT2

thuộc các phân họ khác nhau, trong khi

LPAT3 và LPAT4 có mối quan hệ tiến hóa

Page 26: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

26

gần gũi. Theo đó, các enzym này xuất hiện để

có các hoạt động chức năng riêng biệt như

được thể hiện bằng cách sử dụng các chủng

đột biến của N. oceanica bị thiếu một hoặc hai

trong số bốn LPAT này. LPAT1 được nhận

thấy chủ yếu là tham gia vào quá trình tổng

hợp lipid của màng, trong khi LPAT4 chịu

trách nhiệm về sinh tổng hợp TAG, và LPAT2

và LPAT3 tham gia vào cả hai quá trình.

Các LPAT được dán nhãn huỳnh quang

và vị trí của chúng trong tế bào được quan sát

bằng kính hiển vi đồng tiêu. Trong khi

LPAT1 và LPAT2 thể hiện kiểu định vị ER

điển hình, thì LPAT3 và LPAT4 được nhận

thấy ở vòng ngoài của các giọt lipid (LD), mà

có thể do sự hiện diện của các phần kỵ nước

dài (30-40 đơn phân) trong cấu trúc của

chúng, cho phép neo giữ vào bề mặt LD.

Dựa trên kết quả này, các nhà khoa học

cho rằng, trong sự quá trình tạo thành LD,

LPAT2 chủ yếu tham gia vào quá trình tổng

hợp TAG ban đầu trong ER, LPAT3 và

LPAT4 định vị trên bề mặt LD ở ngoại vi và

đóng góp vào quá trình phát triển hơn nữa của

LD. Nghiên cứu của giáo sư Ohta và các

đồng nghiệp là bằng chứng trực tiếp về đặc

tính chứa dầu của Nannochloropsis được hỗ

trợ bởi các LPAT ở vòng ngoài của LD.

Theo vista.gov.vn, 08/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Tìm ra cách lọc sạch nước không cần tia UV

Các nhà hóa học Australia hôm 9/3

tuyên bố họ đã tìm ra cách sử dụng án nắng

mặt trời làm sạch nước thải rẻ và nhanh hơn

15 lần so với mọi phương pháp hiện có trên

thị trường - tất cả đều không cần đến tia cực

tím (UV).

Các nhà khoa học Australia đã tìm ra cách lọc nước bằng ánh sáng mặt trời không cần tia UV

Nhờ sử dụng dioxide titan như một chất

xúc tác quang học hoạt động bằng ánh sáng

mặt trời, công nghệ mới thật sự khác biệt so

với nhiều sản phẩm lọc nước trên thị trường

vì nó không cần đến tia UV.

Trưởng nhóm nghiên cứu giáo sư Yun

Liu-một giảng viên Đại học Quốc gia

Australia (ANU) cho biết phát minh hiệu quả

gấp 15 lần so với các sản phẩm thương mại

hàng đầu trên thị trường.

“Chất xúc tác quang học của chúng tôi

có thể phân hủy hoàn toàn chất ô nhiễm hữu

cơ trong nước thải chỉ 20 phút, so với các sản

phẩm thương mại hàng đầu cần phải mất 1

giờ chỉ phân hủy được 26% chất ô nhiễu

tương tự”, nhà khoa học chia sẻ.

Công nghệ mới cũng có thể hữu dụng

cho làm sạch nước sinh hoạt dành cho dân

sinh và có ứng dụng tiềm năng tạo ra vật liệu

xây dựng tự làm sạch, bao gồm thủy tình và

phân tách phân tử nước tạo thành nhiên liệu

hydro.

Theo vatlieuxaydung.org.vn, 08/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 27: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

27

Mạch in phun giảm giá thành cho hình xăm điện tử

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại

trường Đại học Waseda ở Nhật Bản đã đưa ra

một phương pháp mới đơn giản để sản xuất

hình xăm điện tử, in "hệ thống dây dẫn điện”

bằng máy in phun cơ bản và kết hợp các

thành phần mà không cần hàn.

Hình xăm điện tử mới được làm từ các

tấm màng cao su đàn hồi siêu mỏng chỉ dày

750 nanomet. Để tạo nên hệ thống dây điện,

các dây bạc dẫn diện được in phun trên một

trong những tấm nano theo cách tương tự như

các mạch được in trên màng, vải hoặc giấy

trước đây. Các linh kiện như điện trở chip và

đèn LED sau đó có thể được đặt dọc theo các

dây dẫn khi cần, trước khi lớp thứ hai của

màng được đặt trên đầu và kẹp giữa là mạch.

Hai lớp tự dính của màng mới không chỉ dính

lại với nhau, mà còn dính với da chúng đặt

lên trên mà không cần băng, keo, liên kết hóa

học hoặc trong trường hợp của các linh kiện

điện tử là hàn. Do thiếu chất hàn, nên màng

có thể kéo căng trên da một cách dễ dàng mà

không phá vỡ mạch và các nhà nghiên cứu

cho rằng những tấm nano mới dẻo hơn 50 lần

so với các vật liệu tương tự.

Vì mạch có thể được in bằng máy in

phun gia dụng và toàn bộ quá trình này có thể

được thực hiện ở nhiệt độ phòng mà không

cần "phòng sạch" vô trùng, nên các thiết bị có

thể dễ dàng được sản xuất với giá thành rẻ.

Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm hệ thống

trên một tấm da nhân tạo. Hệ thống có thể

hoạt động trong vài ngày vào cùng thời điểm,

mặc dù không thể kéo dài lâu khi một người

mang theo thường xuyên trong ngày.

Công nghệ xăm điện tử có phạm vi ứng

dụng khá rộng và cho phép theo dõi các

chuyển động của cơ và những dấu hiệu của sự

sống trong lúc luyện tập, khai thác mồ hôi

làm năng lượng hoặc hoạt động như một điểm

truy cập 5G không dây. Bước tiếp theo các

nhà nghiên cứu đặt mục tiêu hạ giá thành sản

xuất của các thiết bị này.

Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí

Journal of Materials Chemistry C.

Theo vista.gov.vn, 09/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng xenlulô để in 3D

Trong nhiều thế kỷ qua, xenlulô là nền

tảng của vật liệu in phong phú nhất thế giới,

đó là giấy. Giờ đây, theo một nghiên cứu mới

của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT),

xenlulô cũng có thể trở thành nguyên liệu dồi

dào cho việc in ấn, cung cấp lựa chọn phân

hủy sinh học, tái tạo để thay thế cho polyme

hiện đang được dùng trong vật liệu in 3D.

Sebastian Pattinson, trưởng nhóm nghiên

cứu cho rằng: Xenlulô là polyme hữu cơ

phong phú nhất trên thế giới. Xenlulô là thành

phần quan trọng nhất mang lại cho gỗ các tính

chất cơ học. Vì xenlulô có giá thành quá rẻ,

phân hủy sinh học và tái tạo sinh học và cũng

rất linh hoạt về mặt hóa học, nên nó được sử

dụng trong rất nhiều sản phẩm. Xenlulô và các

chất dẫn xuất của nó được sử dụng trong dược

phẩm, thiết bị y tế, phụ gia thực phẩm, vật liệu

xây dựng và quần áo. Trong bối cảnh công

nghệ in 3D đang phát triển nhanh. Xenlulô có

Page 28: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

28

thể được điều chỉnh để mang lại lợi ích cho

những sản phẩm cụ thể.

Sử dụng xenlulô làm nguyên liệu để sản

xuất chất phụ gia không phải là ý tưởng mới.

Nhiều nhà nghiên cứu đã nỗ lực để làm được

điều này nhưng đều vấp phải những trở ngại

lớn. Khi được nung nóng, xenlulô phân hủy

nhiệt trước khi nó tan chảy, một phần là do

liên kết hydro giữa các phân tử xenlulô. Liên

kết giữa các phân tử này cũng làm cho dung

dịch xenlulô nồng độ cao quá nhớt nên dễ

dàng ép ra.

Thay vào đó, các nhà khoa học tại MIT

đã nghiên cứu axetat xenlulô, loại vật liệu dễ

sản xuất từ xenlulô và đã được sản xuất phổ

biến và sẵn có. Về cơ bản, số lượng các liên

kết hydro trong vật liệu này đã bị suy yếu bởi

các nhóm axetat. Axetat xenlulô có thể hòa

tan trong axeton và ép đùn qua một vòi phun.

Vì axeton nhanh chóng bốc hơi, nên xenlulô

axetat đông lại tại chỗ. Liệu pháp xử lý tùy

chọn tiếp theo là thay thế các nhóm axetat và

làm tăng sức mạnh của các vật liệu in.

Pattinson cho rằng: "Sau khi in 3D,

chúng tôi khôi phục lại mạng lưới liên kết

hydro thông qua xử lý hydroxit natri. Chúng

tôi phát hiện thấy sức mạnh và độ dẻo dai của

các vật liệu in cao hơn nhiều vật liệu thường

được sử dụng phổ biến" để in 3D, bao gồm

acrylonitrile butadiene styrene (ABS) và axit

polylactic (PLA).

Để chứng minh tính linh hoạt về mặt

hóa học của quy trình sản xuất, nhóm nghiên

cứu đã bổ sung một lượng thuốc nhuộm

kháng khuẩn cho mực axetat xenlulô và in 3D

lên một cặp nhíp phẫu thuật có chức năng

kháng khuẩn.

Pattinson cho biết: "Chúng tôi đã chứng

minh những bộ phận có khả năng diệt khuẩn

khi bạn chiếu ánh sáng huỳnh quang vào

chúng. Các công cụ tùy chỉnh này sẽ có ích

cho các môi trường y tế xa xôi, nơi có nhu

cầu về các công cụ phẫu thuật nhưng rất khó

cung cấp các công cụ mới khi chúng phân

tách hoặc nơi có nhu cầu về các công cụ tùy

chỉnh. Và với đặc tính kháng khuẩn, nếu tính

vô trùng của phòng mổ không phải lý tưởng,

thì chức năng kháng khuẩn là cần thiết”.

Vì hầu hết máy in 3D ép đùn phụ thuộc

vào việc làm nóng polyme để nó chảy ra, nên

tốc độ sản xuất chúng bị giới hạn bởi lượng

nhiệt được cung cấp cho polyme mà không

làm hỏng nó. Quy trình sản xuất xenlulô ở

nhiệt độ phòng chỉ đơn giản phụ thuộc vào

việc bốc hơi axeton để làm cứng các thành

phần, có thể diễn ra nhanh hơn. Và các

phương pháp khác có thể tăng mạnh hơn nữa

tốc độ của quy trình như đặt các dải vật liệu

mỏng để tăng đối đa diện tích bề mặt hoặc thổi

không khí nóng qua để tăng tốc độ bay hơi.

Một hệ thống sản xuất cũng sẽ tìm cách để thu

hồi axeton bốc hơi để quy trình này có chi phí

hiệu quả và thân thiện hơn với môi trường.

Axetat xenlulô đã được sử dụng phổ

biến như một sản phẩm hàng hóa. Nhìn

chung, vật liệu có thể cạnh tranh về giá cả với

giá nhựa nhiệt dẻo dùng cho đúc phun ép và

nó không đắt bằng vật liệu sợi thường dùng

để in 3D. Điều này kết hợp với điều kiện

nhiệt độ phòng của quy trình và khả năng

chức năng hóa xenlulô theo nhiều cách khác

nhau, có thể khiến cho quy trình trở nên hấp

dẫn về mặt thương mại.

Theo vista.gov.vn, 10/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Công nghệ mới sản xuất pin Lithi-ion sạc nhanh, không cháy

Một nhóm các kỹ sư dẫn đầu bởi John

Goodenough 94 tuổi, giáo sư tại Trường Kỹ

thuật Cockrell, Đại học Texas ở Austin đã

đồng phát minh ra pin lithi-ion, loại pin toàn

bằng chất rắn đầu tiên được phát triển có thể

sẽ là loại pin an toàn hơn, sạc nhanh hơn, và

tuổi thọ cao hơn cho các thiết bị di động cầm

tay, xe điện và thiết bị dự trữ năng lượng tĩnh.

Page 29: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

29

Bước đột phá mới nhất của

Goodenough, được hoàn thiện cùng với

nghiên cứu viên cao cấp Maria Helena Braga

ở trường Cockrell, là loại pin ở trạng thái rắn,

chi phí thấp, không cháy và có tuổi thọ dài,

với mật độ năng lượng trên thể tích cao và tốc

độ sạc và xả cao. Các kỹ sư mô tả công nghệ

mới của họ trong một bài báo mới đăng trên

tạp chí Energy & Environmental Science.

Goodenough cho biết: "Chi phí, độ an

toàn, mật độ năng lượng, tốc độ sạc và tuổi

thọ rất quan trọng đối với ô tô chạy bằng ắc

quy để được chấp nhận rộng rãi hơn. Chúng

tôi tin rằng, phát hiện của chúng tôi giải

quyết được nhiều vấn đề tồn tại của các loại

ắc quy hiện nay".

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh

rằng, ắc quy mới của họ có mật độ năng

lượng cao ít nhất gấp ba lần ắc quy lithi-ion

hiện nay. Mật độ năng lượng của ắc quy tạo

ra phạm vi chạy của xe điện, như vậy, mật độ

năng lượng cao hơn có nghĩa là xe có thể

chạy nhiều dặm hơn giữa các lần sạc. Ắc quy

của UT Austin cũng cho phép số lượng chu

kỳ sạc và xả lớn hơn, có nghĩa là ắc quy có

tuổi thọ lâu hơn, cũng như tốc độ sạc nhanh

hơn (phút thay vì giờ).

Pin lithi-ion hiện nay sử dụng chất điện

ly lỏng để vận chuyển các ion lithi giữa anode

(mặt âm của pin) và cathode (mặt dương của

pin). Nếu pin được sạc quá nhanh, nó có thể

tạo ra các sợi hình nhánh cây hoặc "râu kim

loại" và đi qua chất điện ly lỏng, gây đoản

mạch có thể dẫn đến cháy, nổ. Thay vì các

chất điện ly lỏng, các nhà nghiên cứu dùng

chất điện ly thủy tinh cho phép sử dụng anode

kim loại kiềm mà không tạo thành các sợi

hình nhánh cây.

Việc sử dụng anode kim loại kiềm (lithi,

natri hoặc kali) - là không thể với pin thông

thường - làm tăng mật độ năng lượng của

cathode và tạo vòng đời dài. Trong các thí

nghiệm, pin của các nhà nghiên cứu đã đạt

hơn 1.200 chu kỳ với nội trở pin thấp.

Ngoài ra, vì các chất điện ly thủy tinh

rắn có thể hoạt động, hoặc có độ dẫn điện

cao, ở -20 độ C, loại ắc quy này ở xe có thể

hoạt động tốt ở thời tiết dưới 0 độ C. Đây là

loại ắc quy đầu tiên ở trạng thái rắn có thể

hoạt động ở dưới 60 độ C.

Braga đã bắt đầu phát triển chất điện ly

thủy tinh rắn với các đồng nghiệp trong khi

đang học tại Đại học Porto ở Bồ Đào Nha.

Khoảng hai năm trước đây, Braga bắt đầu hợp

tác với Goodenough và nhà nghiên cứu

Andrew J. Murchison tại UT Austin. Braga

cho biết, Goodenough đã mang đến sự hiểu

biết về các thành phần và tính chất của các

chất điện ly thủy tinh rắn dẫn đến một phiên

bản mới của các chất điện ly, hiện được cấp

bằng sáng chế thông qua Văn phòng Thương

mại hóa Công nghệ Austin UT.

Chất điện ly thủy tinh của các kỹ sư cho

phép họ tạo ra các tấm và dải kim loại kiềm ở

hai cực anode và cathode mà không tạo ra sợi

hình nhánh cây, đơn giản hóa được quá trình

chế tạo pin.

Một lợi thế khác là pin có thể được làm

từ vật liệu thân thiện với trái đất.

"Chất điện ly thủy tinh cho phép thay

thế natri chi phí thấp cho lithi. Natri được

chiết xuất từ nước biển và có ở khắp nơi",

Braga cho biết.

Goodenough và Braga đang tiếp tục đẩy

mạnh việc nghiên cứu pin của họ và đang làm

một số bằng sáng chế. Về ngắn hạn, họ hy

vọng sẽ làm việc với các nhà sản xuất ắc quy

để phát triển và thử nghiệm các vật liệu mới

trong xe điện và các thiết bị dự trữ năng lượng.

Theo vista.gov.vn 10/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 30: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

30

Công nghệ nano có thể mở đường để phục hồi các cơ quan được kết đông

Nghiên cứu mới của nhóm các nhà khoa

học đến từ Hoa Kỳ cho thấy những cơ quan

được kết đông có thể được sử dụng an toàn

với sự trợ giúp của công nghệ nano. Sự phát

triển này giúp cho các cơ quan hiến tặng có

sẵn cho hầu hết những ai cần đến chúng trong

tương lai. Số lượng những cơ quan hiến tặng

có thể được cấy ghép vào bệnh nhân và tăng

lên rất nhiều nếu có cách kết đông và làm ấm

các cơ quan mà không làm hỏng những tế bào

trong đó.

Trong nghiên cứu mới này, các nhà

khoa học đã phát triển phương pháp để làm

lạnh các mô an toàn với sự trợ giúp của các

hạt nano - các hạt nano chỉ như nanomet hoặc

một phần tỉ của mét rộng. (So sánh với tóc

người trung bình rộng khoảng 100.000

nanomét). Các nhà khoa học đã tạo ra các hạt

nano có lớp phủ silic oxit bao gồm oxit sắt.

Khi họ đưa từ trường vào mô đông lạnh kết

hợp với hạt nano, hạt nano tạo ra nhiệt nhanh

chóng và đồng đều. Các mẫu mô được làm

ấm với tốc độ lên đến hơn 260 độ Fahrenheit

(130 độ Celsius) mỗi phút, nhanh gấp 10 đến

100 lần so với các phương pháp trước đây.

Sau đó, họ đã thử nghiệm phương pháp này

trên tế bào da người đông lạnh, phân đoạn

van tim lợn và các phần của động mạch lợn.

Không có mô nào có dấu hiệu bị tổn thương

từ quá trình làm ấm và chúng giữ được các

đặc tính vật lý chính như tính đàn hồi. Hơn

nữa, các nhà nghiên cứu có thể rửa sạch các

hạt nano khỏi mẫu sau khi tan băng. Các

nghiên cứu trước đây đã giải phóng thành

công các mẫu sinh học nhỏ chỉ từ 1 đến 3

mililit. Kỹ thuật mới này hoạt động cho các

mẫu có kích thước lên tới 50 mililit. Nhóm

nghiên cứu cho biết có thể mở rộng kỹ thuật

của họ cho những phương pháp lớn hơn,

chẳng hạn như các cơ quan.

Tác giả nghiên cứu John Bischof, đến từ

Đại học Minnesota, cho biết: "Chúng ta đang

nghiên cứu ở cơ quan thỏ và chúng ta sẽ có

cách để đi tìm các cơ quan của con người,

dường như không có gì cản trở chúng ta”.

Kể từ lần ghép thận thành công đầu tiên

vào năm 1954, ghép cơ quan đã cứu sống hàng

trăm ngàn bệnh nhân. Nếu không vì sự thiếu

những cơ quan của những người hiến tặng thì

đã có thể giúp cho nhiều người hơn. Theo

Organ Procurement and Transplantation

Network ở Hoa Kỳ, trên 120.000 bệnh nhân

hiện đang chờ đợi ghép cơ quan ở Hoa Kỳ và

ít nhất 1 trong 5 bệnh nhân nằm chờ đợi những

bộ phận mà họ không bao giờ nhận được.

Hiện tại, phần lớn các cơ quan có khả

năng được sử dụng cho cấy ghép sẽ bị loại

bỏ, bởi vì chúng chỉ có thể được bảo quản an

toàn trong 4 đến 36 giờ. Theo Organ

Preservation Alliance, chỉ một nửa số trái tim

và phổi bị bỏ đi đã được cấy ghép thành công,

thì những người chờ đợi những nội tạng này

sẽ được giảm bớt trong 2-3 năm tới.

Một cách cứu các cơ quan hiến tặng để

cấy ghép là đóng băng chúng. Các tinh thể

băng có thể phá huỷ các tế bào thường hình

thành trong quá trình đóng băng, nhưng trong

các nghiên cứu trước đây, các nhà nghiên cứu

đã tìm ra kỹ thuật được gọi là thủy tinh hóa -

bao gồm làm ngập các mẫu vật sinh học bằng

các chất chống đông - có thể giúp làm mát các

cơ quan để ngăn chặn sự phân rã, trong khi

hình thành tinh thể băng. Thật không may, tinh

thể băng cũng có thể hình thành trong quá

trình làm ấm. Hơn nữa, nếu việc tan băng

không đồng đều giữa các mẫu, có thể xảy ra

rạn nứt hoặc nứt. Mặc dù các nhà khoa học đã

phát triển phương pháp để sử dụng nhiệt độ

lạnh cóng một cách an toàn để "làm lạnh" các

mô và các cơ quan, nhưng họ vẫn chưa phát

triển cách làm ấm chúng một cách an toàn.

Page 31: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

31

Trong các nghiên cứu trong tương lai,

các nhà khoa học sẽ cố gắng ghép mô đã tan

băng vào động vật sống để xem kết quả như

thế nào. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhấn

mạnh rằng không chắc những phát hiện này sẽ

áp dụng cho lĩnh vực cryonics đang gây tranh

cãi. Cryonics là một phương pháp sử dụng các

thiết bị đặc biệt gây chết lâm sàng rồi bảo quản

con người trong điều kiện lạnh, chờ đợi trong

một tương lai không xa, họ sẽ được hồi sinh

nhờ những tiến bộ vượt bật của y học.

Nghiên cứu này đã được công bố trên

tạp chí Science Translational Medicine!

Theo vista.gov.vn, 13/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Graphene giúp các nhà khoa học thu thập và phân tích tế bào

Một tế bào có thể chứa rất nhiều thông

tin về sức khỏe của một người. Giờ đây, các

nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ

Massachusetts (MIT) và Đại học Quốc gia

Chiao Tung đã phát triển được một phương

pháp mới để thu thập và phân tích các tế bào

từ một mẫu máu nhỏ, có khả năng dẫn đến sự

ra đời của các hệ thống chẩn đoán giá rẻ được

sử dụng ở gần như khắp mọi nơi.

Hệ thống mới dựa vào các tấm graphene

oxit được xử lý đặc biệt, cuối cùng có thể tạo

nên một loạt các thiết bị đơn giản được sản

xuất với giá thành ít nhất 5USD mỗi sản

phẩm và có khả năng thực hiện một loạt các

xét nghiệm chẩn đoán nhạy cảm thậm chí ở

những nơi ở xa các cơ sở y tế.

Vật liệu được sử dụng trong nghiên cứu

này là một phiên bản oxy hóa của dạng

cacbon tinh khiết hai chiều được gọi là

graphene, là chủ đề của nhiều nghiên cứu trên

phạm vi rộng trong hơn một thập kỷ qua do

các tính chất cơ học và tính chất điện độc đáo

của nó. Chìa khóa cho quy trình mới là làm

nóng oxit graphene ở nhiệt độ tương đối thấp.

Ủ ở nhiệt độ thấp này được biết đến là làm

cho oxit graphene có thể liên kết các hợp chất

đặc biệt với bề mặt của vật liệu. Các hợp chất

này lần lượt lựa chọn và liên kết với các phân

tử cụ thể, bao gồm cả ADN và protein hoặc

thậm chí toàn bộ các tế bào. Sau khi được thu

giữ, các phân tử hoặc tế bào này sẽ phải trải

qua nhiều thử nghiệm.

Nhiều nhóm nghiên cứu khác đã từng cố

gắng phát triển các hệ thống chẩn đoán sử

dụng đế oxit graphene để thu thập các tế bào

hoặc phân tử cụ thể, nhưng các phương pháp

này chỉ sử dụng nguyên liệu chưa qua xử lý.

Dù trải qua một thập kỷ nghiên cứu, nhưng

những nỗ lực để tăng hiệu suất của các thiết

bị này phụ thuộc vào những thay đổi bên

ngoài như tạo khuôn mẫu bề mặt thông qua

các kỹ thuật chế tạo in litô hoặc bổ sung vào

các rãnh vi lưu làm tăng chi phí và độ phức

tạp. Phát hiện mới cung cấp một phương thức

sản xuất hàng loạt, giá rẻ để đạt được những

cải tiến hiệu suất này.

Quy trình làm nóng làm thay đổi tính

chất bề mặt của vật liệu, khiến cho các

nguyên tử oxy kết lại với nhau để lại không

gian rỗng giữa chúng. Nhờ vậy, vật liệu

tương đối dễ liên kết các hóa chất khác với bề

mặt, trong đó có thể tương tác với các phân tử

quan trọng. Nghiên cứu mới chứng tỏ quy

trình cơ bản có thể cho phép tạo ra một bộ các

hệ thống chẩn đoán chi phí thấp ví dụ như

sàng lọc ung thư hoặc điều trị tiếp theo.

Đối với thử nghiệm này, nhóm nghiên

cứu đã sử dụng các phân tử có thể thu giữ

nhanh chóng và hiệu quả các tế bào miễn dịch

cụ thể là các chỉ số cho một số loại ung thư.

Các nhà khoa học đã chứng minh các bề mặt

Page 32: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

32

graphene oxit đã xử lý thu giữ các tế bào này

từ máu hiệu quả gấp hai lần so với các thiết bị

được sản xuất bằng cách sử dụng oxit

graphene thông thường chưa qua xử lý.

Hệ thống này cũng có những lợi thế

khác. Hệ thống cho phép thu giữ nhanh và

đánh giá các tế bào hoặc phân tử sinh học

trong các điều kiện môi trường xung quanh

trong khoảng 10 phút và không cần làm lạnh

mẫu hoặc máy nuôi cấy để kiểm soát chính

xác nhiệt độ. Và toàn bộ hệ thống tương thích

với các phương pháp sản xuất trên quy mô lớn

hiện có, làm cho hệ thống có thể tạo ra các

thiết bị chẩn đoán với chi phí chưa đến 5 USD

cho mỗi sản phẩm. Các thiết bị này có thể

được sử dụng trong xét nghiệm tại chỗ hoặc

trong các môi trường có nguồn lực hạn chế.

Các phương pháp xử lý graphene oxit

hiện có cho phép chức năng hóa bề mặt đòi

hỏi các phương pháp xử lý nhiệt độ cao hoặc

sử dụng các hóa chất mạnh, nhưng hệ thống

mới đã được cấp bằng sáng chế, không cần

xử lý trước bằng hóa chất và nhiệt độ ủ chỉ từ

50-80oC.

Mặc dù phương pháp xử lý cơ bản của

nhóm nghiên cứu có thể phục vụ cho một loạt

ứng dụng, bao gồm pin mặt trời và các thiết

bị phát quang, nhưng đối với nghiên cứu này,

các nhà khoa học đã tập trung cải thiện hiệu

suất thu giữ các tế bào và phân tử sinh học

cho một loạt xét nghiệm. Nhóm nghiên cứu

đã làm điều này bằng cách phủ enzym lên bề

mặt oxit graphene đã qua xử lý với các peptit

được gọi là kháng thể nano - tiểu đơn vị của

các kháng thể, có thể được sản xuất với giá

thành rẻ và dễ dàng với khối lượng lớn trong

các lò phản ứng sinh học và có tính chọn lọc

cao đối với các phân tử sinh học đặc biệt.

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng

thời gian ủ tăng đáng kể hiệu quả thu giữ tế

bào: Sau chín ngày ủ, hiệu quả thu giữ tế bào

từ toàn bộ máu đạt từ 54% đối với oxit

graphene chưa xử lý đến 92% cho vật liệu đã

qua xử lý. Sau đó, nhóm nghiên cứu đã thực

hiện các mô phỏng động lực phân tử để tìm

hiểu những thay đổi cơ bản trong phản ứng

của vật liệu nền graphene oxit. Các kết quả

mô phỏng được nhóm nghiên cứu xác nhận

bằng thực nghiệm, cho thấy khi ủ, phần tương

đối của một loại oxy (cacbonyl) tăng theo chi

phí của các loại nhóm chức năng oxy khác

(epoxy và hydroxyl) như là kết quả của việc

tạo cụm oxy. Sự thay đổi này làm cho vật liệu

có khả năng phản ứng mạnh hơn, giải thích

cho các tác nhân thu giữ tế bào mật độ cao và

tăng hiệu quả thu giữ tế bào.

Theo vista.gov.vn, 13/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Thiết bị quan trắc giá rẻ sử dụng ánh sáng để phát hiện nhanh sự cố tràn dầu

Các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha đã

phát triển được một thiết bị đơn giản có thể

phát hiện sự cố tràn dầu trong nước và sau đó

xác định loại dầu nào hiện diện trên mặt

nước. Thiết bị này được thiết kế nổi trên mặt

nước để quan trắc từ xa một khu vực nhỏ dễ

bị ô nhiễm hoặc theo dõi sự tiến triển của ô

nhiễm tại một địa điểm cụ thể.

Jose R. Salgueiro tại Trường Đại học

Vigo và là trưởng nhóm nghiên cứu cho rằng:

"Việc phát hiện nhanh sự cố tràn dầu là rất

quan trọng để chống lại tình trạng ô nhiễm

nhanh nhất có thể do hỗn hợp dầu hòa vào

trong nước, khiến cho việc làm sạch trở nên

khó khăn và không hiệu quả. Ngoài ra, việc

xác định loại dầu nào có thể làm cho công tác

ứng phó chống lại ô nhiễm được cụ thể hơn".

Mặc dù đã có các thiết bị công nghệ

phức tạp và đắt đỏ sử dụng máy bay hay vệ

tinh để tìm kiếm dầu trên các khu vực rộng

lớn, nhưng nghiên cứu mới cho thấy có thể

Page 33: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

33

chế tạo một thiết bị đơn giản và hiệu quả để

theo dõi liên tục một khu vực cụ thể. Trên

Tạp chí Optical Applied Optics, các nhà

nghiên cứu đã mô tả thiết bị cảm biến dầu

mới và nêu chi tiết về khả năng phân biệt 5

loại dầu được thử nghiệm trong nghiên cứu.

Phát hiện tín hiệu huỳnh quang của dầu

Khi dầu thô hoặc dầu tinh chế hấp thụ

ánh sáng cực tím (UV), nó phát xạ quang phổ

huỳnh quang duy nhất. Thiết bị mới sử dụng

quang phổ huỳnh quang này như là tín hiệu

để xác định loại dầu bằng cách so sánh huỳnh

quang đo được với thông tin trong cơ sở dữ

liệu.

Mặc dù hầu hết các thiết bị phát hiện

huỳnh quang đều sử dụng máy quang phổ đắt

tiền và tinh vi, nhưng nhóm nghiên cứu đã sử

dụng một thiết bị đơn giản và giá rẻ gồm 4

máy dò quang điốt với nhiều màu khác nhau

của các bộ lọc màng giấy bóng kính xenlôfan.

Thiết bị này cho phép ghi lại bốn tín hiệu,

mỗi tín hiệu bao gồm các vùng quang phổ

huỳnh quang khác nhau. Thiết bị sử dụng đèn

LED cực tím làm nguồn ánh sáng và bộ vi

điều khiển giá rẻ giống như các thiết bị được

sử dụng để máy bay không người lái hoạt

động. Nó cũng bao gồm một môđun radio

thương mại để gửi dữ liệu và nhận các lệnh

cấu hình.

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm thiết bị

bằng cách tiến hành đo đạc trong phòng thí

nghiệm về ba loại dầu thô được cung cấp bởi

một công ty dầu mỏ và hai loại dầu tinh chế.

Các nhà khoa học đã mô phỏng các điều kiện

của một sự cố tràn dầu bằng cách tạo ra các

màng mỏng của từng loại dầu trên mặt nước.

Salgueiro cho rằng: "Bốn tín hiệu được

chứng minh đủ để tạo nên dấu vết đặc trưng

cho mỗi loại dầu được sử dụng trong nghiên

cứu, cho phép chúng tôi xác định các loại dầu

khác nhau. Cách tiếp cận này làm giảm đáng

kể chi phí của thiết bị và đơn giản hóa việc

kiểm tra ô nhiễm".

Thử nghiệm trong môi trường tự nhiên

Hiện nay, các nhà khoa học đã chứng

minh thiết bị mới trong phòng thí nghiệm.

Nhóm nghiên cứu dự kiến sẽ xây dựng một

mẫu thiết bị hoạt động bằng năng lượng mặt

trời gắn trong phao và đặt trong hồ hoặc

ngoài biển khơi trong nhiều tháng. Mẫu thiết

bị bao gồm cả phao sẽ có chiều cao và đường

kính khoảng 30cm và sẽ có khả năng gửi các

số đo cho người sử dụng thông qua một mô

đun vô tuyến hoặc thậm chí bằng modem vệ

tinh. Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu

để ghi lại dấu vết huỳnh quang cho các loại

dầu phổ biến khác không được đề cập trong

nghiên cứu này để có thể xác định nhiều loại

dầu hơn.

Salgueiro cho rằng: "Thiết bị của chúng

tôi có thể giúp theo dõi và kiểm soát ô nhiễm

tốt hơn, đặc biệt là bằng cách phát hiện các

nguồn ô nhiễm tiềm ẩn. Khi ô nhiễm xuất

hiện, thiết bị sẽ giúp nhanh chóng phát hiện

ra sự cố, xác định bản chất của ô nhiễm và

đưa ra phản ứng tốt hơn".

Theo vista.gov.vn, 14/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Hydrogel sợi cốt thép bền chắc hơn 5 lần so với thép

Các nhà khoa học vừa tạo ra được một

loại vật liệu hydrogel mới ở dạng sợi, khi liên

kết lại với nhau thành tấm, nó cứng hơn thép

carbon đến 5 lần mà vẫn có thể uốn dẻo, bẻ

cong.

Tấm vật chất hydrogel mềm mỏng như vải nhưng cứng hơn thép đến 5 lần.

Page 34: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

34

Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học

Hokkaido của Nhật Bản đã phát triển ra loại

sợi này, được gọi là sợi gia cố mềm hỗn hợp

(hay FRSC), bằng cách kết hợp hydrogel

chứa hàm lượng cao nước và sợi thủy tinh.

"Vật chất này có nhiều ứng dụng tiềm

năng do sự đáng tin cậy, độ bền và tính linh

hoạt của nó", nhà nghiên cứu Jian Ping Gong

cho biết.

Đặt hai loại vật liệu gần nhau để kết hợp

sức mạnh của chúng là việc làm được tổ tiên

loài người thực hiện từ lâu, như rơm và bùn là

hai loại vật liệu mềm, nhưng khi trộn với

nhau có thể tạo ra gạch cứng.

Ý tưởng này đến từ việc tạo ra một siêu

vật liệu, kết hợp những phần tốt nhất của

những vật liệu thường thấy trong tự nhiên.

Điểm trội nhất của hydrogel là khả năng chịu

tải lớn và chống đổ gãy, trong khi sợi thủy

tinh nổi bật với sự dẻo dai và bền bỉ.

Khi kết hợp lại, các nguyên tử sẽ hút với

nhau, trao đổi các hạt điện tích, khiến những

đặc tính trội của hai loại vật liệu sẽ được hòa

trộn và trở nên tối ưu. Phương pháp này sẽ

được áp dụng để tạo ra loại cao su mới trong

nghiên cứu kế tiếp.

Loại vật chất này sẽ được sử dụng để

tạo ra gân và dây chằng nhân tạo, nhằm chữa

lành vết thương tốt hơn; hay tạo ra những loại

robot có mô cơ mềm vì sự thiếu dẻo dai của

những thế hệ robot trước đã làm giảm đi đáng

kể khả năng của chúng.

Nguồn: Báo Xây dựng

Theo vatlieuxaydung.org.vn, 14/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Các nhà nghiên cứu phát triển được phương pháp mới có thể lập trình tổ chức hạt nano bên trong các màng mỏng polymer

Hình ảnh minh họa tổ chức hạt nano có trật tự

được tạo ra từ phương pháp SCPINS mới. Nó có thể ứng dụng cho nhiều mẫu hình học khác

nhau và các hợp chất hạt khác nhau. Nguồn: Trường Đại học Akron

Một nghiên cứu mới của nhóm nghiên

cứu Trường Đại học Akron (UA) cho thấy,

việc điều chỉnh kiểm soát tổ chức của các hạt

nano thành các mẫu trong các màng polymer

siêu mỏng có thể dùng entropi thay vì dùng

chất hóa học. Màng mỏng polymer được sử

dụng trong hàng loạt các ứng dụng công nghệ

như sơn, dầu nhờn và chất kết dính.

Alamgir Karim, giáo sư, tiến sỹ Kỹ

thuật Polymer, Công ty Cao su Goodyear

Tire, UA và tiến sỹ Ren Zhang, sinh viên của

Karim đã phát triển thành công một phương

pháp độc đáo đó là phương pháp tách hạt

nano (soft-confinement pattern-induced

nanoparticle segregation, SCPINS) để chế tạo

các màng mỏng vật liệu cấu trúc nano

polymer có các tổ chức hạt nano được kiểm

soát tốt với kích thước hạt siêu hiển vi (hạt

không thấy được dưới kính hiển vi). Phương

pháp mới này có thể kiểm soát một nhóm tổ

chức của bất kỳ loại hạt nano nào vào bên

trong các mẫu trong các màng mỏng này.

Điều này rất hữu ích cho các ứng dụng bao

gồm cảm biến, mạch điện sợi dây nano hoặc

các lưới nhiễu xạ, xử lý nhiệt và hấp thụ UV.

Công trình nghiên cứu này mới đây đã được

công bố trên Kỷ yếu Viện Hàn lâm Khoa học

quốc gia (Proceedings of the National

Academy of Sciences -PNAS).

Bằng trực giác cho thấy, entropi có liên

quan đến các nhiễu loạn của hệ thống nào đó.

Tuy nhiên, đối với các chất keo, hệ thống có

thể trải qua quá trình chuyển đổi làm gia tăng

cả entropi và bậc hiển thị. Lấy cảm hứng từ

quan sát này, Karim và Zhang đã nghiên cứu

được vai trò của entropi trong các tổ chức

Page 35: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

35

định hướng của các hạt nano ghép polymer

(PGNPs) trong các màng mỏng polymer.

Bằng cách tạo dấu đơn giản các màng mỏng

hỗn hợp thành các vùng cấu trúc rãnh theo

mẫu, các hạt nano sẽ tự động làm giầu các

cấu trúc, hình thành các cấu trúc vi thể có họa

tiết trùng khớp với mẫu topographic. Sự phân

tách chọn lọc PGNPs do entropi gây nên là

nhờ sự biến đổi cấu trúc chuỗi ghép trong các

vùng cấu trúc rãnh siêu mỏng.

Đây là lần đầu tiên đã tạo ra được tổ

chức không gian của các hạt nano đúng như

mong muốn bằng các mẫu topographic gây

hiệu ứng ức chế entropi mà không cần nhờ

các chất hóa học điều chỉnh sự tương tác

enthalpic. Phương pháp SCPINS này có thể

ứng dụng để tổng hợp các hạt bất định và các

pattern hình học. Ngoài ra, nghiên cứu này

cũng có thể mở rộng ứng dụng đối với các hệ

thống hạt đa thành phần do đó nó rất có tiềm

năng ứng dụng cho ngành công nghệ vật liệu

nano như thiết bị điện tử nano và hệ thống

chế tạo (plasmonic).

Theo vista.gov.vn, 16/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Chất thay thế xăng và nhiên liệu phản lực được sản xuất bằng tế bào nấm men

Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học

Công nghệ Chalmers đã phát hiện ra rằng

enzym synthase axít béo (FAS) có khả năng

sản xuất các hóa chất bền vững cho nhiên liệu

sinh học. Kết quả nghiên cứu mới được công

bố trên tạp chí Nature Chemical Biology.

Nhu cầu về các chất thay thế bền vững

và sạch cho những sản phẩm có nguồn gốc từ

dầu mỏ đang ở mức cao. Một trong những lựa

chọn hiện nay là sản xuất hóa chất và nhiên

liệu sinh học từ sinh khối bền vững. Để làm

được điều này, nhóm nghiên cứu tại Trường

Đại học Công nghệ Chalmers đã thiết kế các

“nhà máy” tế bào nấm men trên thực tế có thể

tạo ra các hóa chất cần thiết theo hướng bền

vững. Theo đó, enzym synthase axit béo

(FAS) đã được biến đổi để tạo ra các sản

phẩm mới.

Zhiwei Zhu, tác giả đầu tiên của nghiên

cứu cho rằng: "Enzym này thường tổng hợp

các axít béo chuỗi dài, nhưng giờ đây chúng

tôi đã biến đổi nó để tổng hợp các axit béo

chuỗi trung bình và xeton metyl. Các hóa

chất này là thành phần của nhiên liệu vận tải

thông dụng hiện nay. Nói cách khác, chúng

tôi hiện có thể sản xuất các chất thay thế

xăng và nhiên liệu phản lực trong các nhà

máy tế bào nấm men và điều này chưa bao

giờ được thực hiện trước đây".

Enzym quan trọng này lần đầu tiên được

mô tả bởi Feodor Lynen, người đã giành giải

thưởng Nobel và nhiều nhà nghiên cứu khác

đã cố gắng để biến đổi enzym này trong

những năm gần đây. Nhưng điều đó có vẻ rất

khó hoặc gần như không thể cho đến nay.

Cách đây vài năm, các nhà nghiên cứu tại

Trường Đại học Công nghệ Chalmers đã tìm

thấy một synthase axit béo có chứa hai miền

protein chứa acyl.

Zhu cho rằng: "Đầu tiên, chúng tôi cố

gắng thay đổi synthase axít béo bằng cách

thay thế một trong những miền protein chứa

acyl của nó bằng một enzym lạ để thay đổi

thuộc tính của nó và đáng ngạc nhiên là

synthase đã hoạt động. Sau đó, chúng tôi đã

thực hiện sự thay đổi này trong các synthase

axit béo từ nấm khác và đã nhận thấy tính

linh hoạt của phương pháp này".

Các nhà nghiên cứu hiện đang tập trung

sử dụng enzym đã biến đổi để xây dựng nhà

máy tế bào nấm men nhằm sản xuất hóa chất

và nhiên liệu từ glucose. Nhóm nghiên cứu

Page 36: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

36

đang xin cấp sáng chế cho phát minh này.

Biopetrolia, công ty phái sinh từ Trường Đại

học Công nghệ Chalmers, tham gia tích cực

vào nỗ lực phát triển hơn nữa kỹ thuật để nó

có tính khả thi về mặt kinh tế.

Theo vista.gov.vn, 17/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Các nhà hóa học tạo ra “lá” phân tử thu và trữ năng lượng mặt trời mà không có tấm năng lượng mặt trời

Một nhóm các nhà khoa học quốc tế do

Liang-shi Li dẫn đầu tại Đại học Indiana đã

đạt được một mốc quan trọng mới trong việc

tái chế cacbon dioxide trong bầu khí quyển

Trái đất thành nhiên liệu không phát thải

cacbon và các vật liệu khác.

Các nhà hóa học đã thiết kế một phân tử

sử dụng ánh sáng hoặc điện để chuyển đổi

cacbon dioxide khí nhà kính thành cacbon

monoxide - một nguồn nhiên liệu không phát

thải cacbon - hiệu quả hơn bất kỳ phương

pháp "giảm cacbon" nào khác.

Quá trình này được báo cáo trong Tạp

chí Journal of the American Chemical

Society.

"Nếu bạn có thể tạo ra một phân tử đủ

mạnh cho phản ứng này, nó sẽ sản sinh ra

năng lượng tự do và có thể trữ dưới dạng

nhiên liệu", Li, phó giáo sư Khoa Hoá, Đại

học Nghệ thuật và Khoa học IU Bloomington,

cho biết. "Nghiên cứu này là bước nhảy vọt

lớn theo hướng đó".

Việc đốt nhiên liệu, chẳng hạn như

cacbon monoxide, sản sinh ra khí cacbonic và

giải phóng năng lượng. Chuyển đổi cacbon

dioxide trở lại thành nhiên liệu đòi hỏi phải

có ít nhất một lượng năng lượng tương tự.

Mục tiêu chính của các nhà khoa học cho đến

nay là làm giảm lượng năng lượng thêm cần

thiết.

Khả năng tạo ra cacbon monoxide một

cách có hiệu quả là rất có ý nghĩa do sự linh

hoạt của các phân tử.

Đây chính xác là điều mà phân tử của Li

đạt được: đòi hỏi lượng năng lượng ít nhất

được báo cáo cho đến nay để thúc đẩy sự hình

thành cacbon monoxide. Phân tử này, là một

phức hợp nanographene-rheni được liên kết

bằng hợp chất hữu cơ được gọi là bipyridin,

tạo ra phản ứng rất hiệu quả chuyển đổi

cacbon dioxide thành cacbon monoxide.

"Cacbon monoxide là một nguyên liệu quan

trọng trong rất nhiều quy trình công nghiệp",

Li nói. "Đây cũng là cách để trữ năng lượng

như là nhiên liệu không phát thải cacbon bởi

vì bạn không đưa thêm cacbon vào bầu khí

quyển hơn là đã bỏ nó đi. Bạn chỉ đơn giản là

giải phóng lại năng lượng mặt trời mà bạn đã

sử dụng để tạo ra nó".

Bí mật về hiệu quả của phân tử là

nanographene, là loại graphite có kích thước

nanô mét, một dạng phổ biến của cacbon (tức

là "chì" đen trong bút chì), do màu tối của vật

liệu hấp thụ một lượng lớn ánh sáng mặt trời.

Li cho biết phức hợp kim loại bipyridin

từ lâu đã được nghiên cứu để khử cacbon

dioxide thành cacbon monoxide với ánh sáng

mặt trời. Nhưng những phân tử này chỉ có thể

sử dụng một lượng nhỏ của ánh sáng mặt trời,

chủ yếu ở dải tia cực tím, không nhìn thấy

được bằng mắt thường. Ngược lại, phân tử

được phát triển ở IU tận dụng năng lượng hấp

thụ ánh sáng của nanographene để tạo ra phản

Page 37: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

37

ứng sử dụng ánh sáng mặt trời ở bước sóng

tới 600 nanomét, là một phần lớn của phổ ánh

sáng thấy được.

Về cơ bản, Li cho biết, phân tử này hoạt

động như một hệ thống hai thành phần: một

“bộ thu năng lượng” graphennano hấp thụ

năng lượng từ ánh sáng mặt trời và một “động

cơ" rheni nguyên tử tạo ra cacbon monoxide.

Bộ thu năng lượng truyền một dòng electron

tới nguyên tử rheni, liên tục liên kết và

chuyển đổi cacbon dioxide ổn định thông

thường thành cacbon monoxide.

Ý tưởng liên kết nanographene với kim

loại đã nảy sinh từ những nỗ lực trước đây

của Li để tạo ra pin năng lượng mặt trời hiệu

quả hơn với vật liệu có chứa cacbon. "Chúng

tôi tự hỏi: Liệu chúng ta có thể bỏ được pin

năng lượng mặt trời và chỉ sử dụng đặc tính

hấp thụ ánh sáng của nanographene một

mình để điều khiển phản ứng?" ông nói.

Tiếp theo, Li dự định làm cho phân tử

này mạnh hơn, bao gồm việc làm cho nó tồn

tại lâu hơn và tồn tại ở dạng không lỏng, vì

các chất xúc tác rắn dễ sử dụng hơn trong thế

giới thực. Ông cũng đang làm việc để thay thế

nguyên tử rheni trong phân tử, là một nguyên

tố hiếm, bằng mangan, một loại kim loại phổ

biến và rẻ tiền hơn.

Theo vista.gov.vn, 17/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Tạo ra vật liệu từ tính cao để cải thiện các công nghệ máy tính

Nhóm nghiên cứu do GS. Ian Manners

tại trường Hóa học thuộc Đại học Bristol dẫn

đầu, đã mở ra một con đường dễ dàng tạo ra

vật liệu có tính chất từ tính cao để cung cấp

những cải tiến cơ bản hiệu suất của các công

nghệ máy tính hiện nay.

Polyme hoặc nhựa có đặc trưng là các

nguyên tử kim loại nằm trong cấu trúc của

chúng. Đây là trọng tâm của nhiều nghiên cứu

trong những thập kỷ qua. Kết quả nghiên cứu

cho thấy nó được ứng dụng trong các vật liệu

tự phục hồi, công nghệ quang điện và lưu trữ

thông tin. Phức hệ kim loại thường được gọi là

metallocene cũng đã được đưa vào trong vật

liệu polime, thường bằng cách sử dụng sắt.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại trường

Đại học Bristol cùng với các cộng sự tại

trường Đại học Oxford đã tạo ra một loại

polyme trong đó niken được đưa vào cấu trúc,

mang lại cho vật liệu tính chất từ tính cao và

màu xanh sáng.

Rebecca Musgrave, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng: "Đáng chú ý, chúng tôi cũng có

khả năng tạo ra và phá hủy polyme từ tính

động này chỉ bằng cách sử dụng những thay

đổi nhiệt độ (thông qua một quá trình gọi là

khử trùng hợp). Hầu hết vật liệu có tính chất

từ tính vừa không tan hoặc khó xử lý và loại

polyme niken này là một ví dụ hiếm có về một

polyme từ tính hòa tan, dễ xử lý và tiếp cận".

Các tính chất điện tử và từ tính thú vị

của polyme này sẽ tiếp tục được khám phá

với mục đích làm cho vật liệu từ tính cao

được sử dụng trong các ứng dụng lưu trữ dữ

liệu, chìa khóa để cải thiện hiệu suất của các

công nghệ máy tính hiện nay.

Theo vista.gov.vn, 20/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 38: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

38

Đột phá trong phát triển quá trình xử lý phục vụ chế tạo các màng phân tách siêu chọn lọc

Một nhóm nghiên cứu thuộc Trường

Đại học Minnesota đã tạo ra một bước đột

phá trong phát triển quy trình xử lý tinh thể

để tạo ra lớp vật liệu siêu mỏng với các khẽ

lỗ nhỏ có kích thước chỉ bằng phân tử. Các

nhà nghiên cứu cũng đã chứng minh được lợi

ích của vật liệu có tên là các tấm nano

zeolite(zeolite nanosheets) khi tiến hành chế

tạo các màng siêu tách lọc dùng để phân tách

các chất hóa học.

Các màng mới này có thể tách chiết có

chọn lọc các phân tử riêng lẻ dựa vào hình

dạng và kích thước vật liệu, do đó có thể cải

thiện hiệu quả năng lượng của các quá trình

xử lý phân tách chất hóa học từ các nhiên

liệu, các chất hóa học, dược phẩm

(pharmaceuticals).

Công trình nghiên cứu này đã được

công bố trên tạp chí Nature và hiện đã được

cấp bằng sáng chế với công nghệ này.

Theo Michael Tsapatsis, giáo sư khoa

học vật liệu và công nghệ hóa học tại Trường

Đại học Minnesota và là người đứng đầu

nghiên cứu cho biết, quy trình xử lý mới này

có thể khiến tinh thể tấm nano zeolite phát

triển nhanh hơn, đơn giản hơn, chất lượng và

nhiều ích lợi hơn so với trước đây. Đây cũng

là một hướng đi mới giúp cải thiện hiệu suất

năng lượng trong các ngành công nghiệp hóa

chất và sản phẩm hóa dầu.

Hầu hết các chất hóa học và quy trình

lọc sạch các chất hóa dầu hiện nay chủ yếu

dựa vào quá trình xử lý thúc đẩy nhiệt như là

chưng cất và quá trình xử lý này rất tốn năng

lượng. Lấy ví dụ như, năng lượng dùng cho

quá trình tách chất hóa học dựa vào chưng

cất tương ứng với gần 5% tổng năng lượng

tiêu dùng ở Hoa Kỳ.

Hiện có một số công ty và các nhà khoa

học đang tiến hành nghiên cứu các phương

pháp phân tách có hiệu quả năng lượng hơn

so với các phương pháp hiện nay dựa trên các

màng mỏng để có thể phân tách các phân tử

theo kích cỡ và hình dạng của chúng. Sự

khác biệt của những màng lọc này chính là

nó dựa vào zeolites và các tinh thể silicat có

các khe lỗ rỗng có đường kính chỉ bằng

nguyên tử. Tuy nhiên, quá trình xử lý đa

bước này dùng trong sản xuất các màng rất

tốn kém, khó mở rộng và sản xuất thương

mại mại hóa vẫn còn là một thách thức lớn.

Trong khám phá mới này, các nhà

nghiên cứu lần đầu tiên đã phát triển được

quy trình xử lý từ dưới lên (bottom-up) để

hướng đến phát triển các tấm nano zeolite.

Những tấm nano có thể dùng để tạo ra

các màng lọc phân tử có chất lượng cao và

chỉ dày khoảng 5 nanometer và rộng vài

micrometer (rộng hơn 10 lần so với các

zeolite nanosheets trước đây). Và các tấm

nano mới này có sự phát triển theo hình dạng

đồng nhất khiến cho nó dễ dàng tạo ra các

màng mỏng dùng cho quá trình chiết lọc chất

hóa học hơn.

“Các tấm zeolite này có hình dạng đồng

nhất do đó nó giúp cho các màng lọc tốt hơn

và có thể loại bỏ được các tạp chất”, Mi

Young Jeon, tiến sỹ khoa học vật liệu và

công nghệ hóa học, tác giả đầu tiên của

nghiên cứu này nói.

Để phát triển được các tấm nano zeolite,

các nhà nghiên cứu đã lần đầu tiên bắt đầu với

các tinh thể nano hạt, tăng gấp đôi kích cỡ và

mở rộng các bề mặt. Các tinh thể hạt này sau

đó được kích hoạt tạo ra sự phát triển ghép

cặp để phát triển thành tấm nano. Các tấm

nano này bắt đầu xuất hiện từ góc của các tinh

thể hạt và sau đó tiếp tục phát triển mạnh và

bao bọc hoàn toàn hạt rồi hình thành nên một

Page 39: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

39

tấm nano nhiều mặt siêu mỏng và đồng nhất

về kích thước và hình dạng.

“Hình dạng đồng nhất của tinh thể là

một điều khá bất ngờ với chúng tôi. Trong

suốt 25 năm nghiên cứu về sự phát triển tinh

thể zeolite, tôi chưa bao giờ quan sát thấy

bất cứ điều gì giống như vậy”, Tsapatsis nói.

Các nhà nghiên cứu khác cũng vô cùng

ngạc nhiên với những kết quả nghiên cứu này.

Andre Mkhoyan cho biết: “Thật thú vị khi

quan sát các tinh thể mỏng này dưới kính hiển

vi điện tử và nghiên cứu cấu trúc của chúng”.

“Sau khi quan sát thấy một “cặp đôi song

sinh” dưới kính hiển vi điện tử, chúng tôi đã

biết là chúng tôi đã tìm thấy một thứ mà nó có

thể giúp thúc đẩy việc phát triển các tinh thể

xốp siêu mỏng”, Prashant Kumar bổ sung.

Theo vista.gov.vn, 21/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Màn hình 3D mới sử dụng bong bóng để chiếu hình ảnh

Chất lỏng hiện diện bên trong màn hình

bong bóng huỳnh quang có thể là điều quan

trọng tiếp theo trong công nghệ 3D, cho phép

người xem có thể đi lại xung quanh màn hình

mà không cần bất kỳ chiếc kính đặc biệt nào.

Công nghệ cho hình ảnh 3D thường cần dùng

kính hoặc tai nghe để người dùng trải nghiệm

kích thước hình ảnh được hiển thị trên bề mặt

phẳng. Tuy nhiên, nhóm các nhà nghiên cứu

đã giới thiệu một công nghệ mới về màn hình

hiển thị hình ảnh 3D theo cách có thể làm cho

chúng ta nhìn thấy hình ảnh từ mọi góc độ và

không cần đeo kính.

Kỹ thuật mới của nhóm nghiên cứu là sử

dụng tia laze để tạo ra các bong bóng trong

lớp chất lỏng đậm đặc. Sau đó, bong bóng

được chiếu sáng bằng cách sử dụng đèn.

Những bong bóng đầy màu sắc này hoạt động

như những 3D pixel (voxels) tạo ra các hình

ảnh ba chiều trong màn hình "chất lỏng", nó

là ba chiều hoặc thể tích. Các nhà nghiên cứu

cho biết, thể tích màn hình bong bóng cho

phép các hình ảnh 3D là hình ảnh ba chiều.

Tác giả Kota Kumagai, đến từ Đại học

Utsunomiya - Nhật Bản, cho biết: "Đồ họa

bong bóng của chúng tôi có góc nhìn rộng, có

thể tô màu và sắc nét. Mặc dù thể tích đồ thị

đầu tiên có tỷ lệ mm, chúng tôi đã đạt được

bước đầu tiên hướng tới thể tích màn hình

hiển thị đầy đủ màu”.

Nhóm nghiên cứu giải thích: Với chất

lỏng huỳnh quang hoạt động như màn hình,

các voxels bong bóng được tạo ra thông qua

sự hấp thụ "multiphoton". Hiện tượng này xảy

ra khi photon (các hạt ánh sáng) từ laze được

hấp thụ ở điểm mà ánh sáng laze được tập

trung. Vì vậy, những bong bóng nhỏ xíu được

tạo ra ở các vị trí chính xác trong màn hình

lỏng, đủ độ dày để giữ cho các bong bóng ở

nguyên một chỗ. Một khi các bong bóng được

hình thành, đồ hoạ có thể được chiếu lên

chúng. Theo các nhà nghiên cứu, vì các bong

bóng là ba chiều, các hình ảnh được chiếu là

3D và có thể được nhìn từ mọi góc độ.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chỉ

sản xuất những hình ảnh đơn sắc, sử dụng

nguồn ánh sáng bên ngoài, chẳng hạn như đèn

LED, để làm màu các bong bóng. Tuy nhiên,

nghiên cứu mới này cho thấy máy chiếu có

thể được sử dụng để làm sáng các đồ họa

bong bóng với màu sắc khác nhau. Công nghệ

này tạo ra màn hình được sử dụng cho những

cuộc triển lãm nghệ thuật hoặc bảo tàng.

Ngoài ra, các bác sĩ có thể sử dụng màn hình

hiển thị trong bệnh viện để hình dung rõ hơn

cách giải phẫu của bệnh nhân hoặc quân đội

có thể sử dụng màn hình hiển thị để hiểu sâu

hơn về địa hình quân sự.

Page 40: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

40

Kota Kumagai cho biết: “Màn hình bọt

thể tích phù hợp nhất cho các cơ sở công

cộng, chẳng hạn như viện bảo tàng hoặc hồ

cá, hiện tại thiết lập hệ thống khó khăn và chi

phí cao. Tuy nhiên, trong tương lai, chúng tôi

hy vọng sẽ cải thiện được kích thước, chi phí

laze và các thiết bị quang học để tạo ra hệ

thống nhỏ hơn có thể phù hợp để sử dụng cho

cá nhân”.

Theo vista.gov.vn, 21/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo vật liệu không độc hại sản xuất điện

Các kỹ sư tại Trường Đại học Utah đã

chế tạo được một loại vật liệu mới. Nhờ vậy,

đồ trang sức như nhẫn và nhiệt độ cơ thể của

bạn có thể sản sinh đủ điện để cung cấp cho

cảm biến cơ thể hoặc chảo nấu ăn có thể sạc

điện thoại di động chỉ trong vài giờ.

Nhóm nghiên cứu do Ashutosh Tiwari,

giáo sư khoa học và kỹ thuật tại Trường Đại

học Utah dẫn đầu, đã phát hiện ra rằng sự kết

hợp của các nguyên tố hóa học canxi, coban

và herbium có thể cho ra đời một vật liệu hiệu

quả, giá rẻ và thân thiện sinh học có khả năng

sản xuất điện thông qua một quy trình nhiệt

điện liên quan đến nhiệt và không khí lạnh.

Hiệu ứng nhiệt điện là một quá trình

trong đó, sự chênh lệch nhiệt độ trong vật liệu

sinh ra điện áp. Khi một đầu của vật liệu nóng

và đầu kia lạnh, các hạt tải điện từ đầu nóng

di chuyển qua vật liệu đến đầu lạnh sinh ra

điện áp. Vật liệu này cần sự chênh lệch nhiệt

độ chưa đến 10 để tạo ra điện áp dễ phát hiện.

Trong nhiều năm qua, các nhà nghiên

cứu đã tìm kiếm loại vật liệu phù hợp làm cho

quy trình hiệu quả hơn và sản xuất điện nhiều

hơn nhưng không độc hại. Tuy nhiên, các vật

liệu khác có thể sản xuất điện theo cách này

như cadmium-, telluride- hoặc các vật liệu từ

thủy ngân, đều gây độc cho con người. Ưu

điểm duy nhất của vật liệu mới là giá thành

sản xuất rẻ và quan trọng nhất là thân thiện

sinh học và thân thiện sinh thái trong khi vẫn

phát điện hiệu quả. Do đó, nó có thể an toàn

để sử dụng cho người.

Các ứng dụng của vật liệu mới này là vô

tận. Vật liệu có thể được chế thành đồ trang

sức sử dụng nhiệt của cơ thể để cung cấp điện

cho các thiết bị y tế cấy ghép như máy đo

đường huyết hoặc theo dõi tim. Nó có thể

được sử dụng để sạc các thiết bị di động

thông qua chảo nấu ăn hoặc trong xe hơi nơi

nó khai thác sức nóng của động cơ. Máy bay

có thể sản sinh thêm năng lượng bằng cách sử

dụng nhiệt trong cabin đối lập với không khí

lạnh bên ngoài. Các nhà máy điện cũng có thể

sử dụng vật liệu để sản xuất nhiều điện năng

hơn từ nhiệt thải của chính các nhà máy.

Shrikant Saini, nghiên cứu sinh sau tiến

sỹ và là đồng tác giả nghiên cứu cho rằng:

"Trong các nhà máy điện, khoảng 60% năng

lượng bị lãng phí. Bạn có thể tái sử dụng phần

nào mức năng lượng đó". Saini cho rằng vật

liệu cuối cùng sẽ được sử dụng tại các nước

đang phát triển, nơi khan hiếm điện và nguồn

năng lượng duy nhất là lửa trong bếp lò.

Văn phòng Thương mại hoá công nghệ

& kinh doanh thuộc Trường Đại học Utah đã

xin cấp sáng chế cho vật liệu và nhóm nghiên

cứu sẽ phát triển vật liệu để sử dụng trong xe

hơi và cảm biến sinh học.

Theo vista.gov.vn, 22/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 41: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

41

Mexico phát minh ra pin vĩnh cửu, bật sáng đèn pin trong 100 năm

Nhà khoa học Mexico Arturo Solis Herrera và loại pin vĩnh cử mà ông chế tạo.

(Nguồn: facebook./pages/Arturo-Solis-Herrera)

Theo phóng viên TTXVN tại Mexico,

mới đây, nhà khoa học Mexico Arturo Solis

Herrera đã chế tạo ra một loại pin có thể dùng

để bật sáng đèn pin trong vòng 100 năm bằng

cách sử dụng nước và chất melanin.

Ông Herrera, chuyên gia về mắt và hiện

là Giám đốc Viện nghiên cứu và phát triển

thuộc Trung tâm nghiên cứu quá trình quang

hợp của Mexico, cho biết khi thực hiện một

nghiên cứu về phân tử trên da, tóc và màng

che võng mạc của mắt người, ông đã phát

hiện ra chất melanin có khả năng phá vỡ phân

tử nước, tách oxy và hydro, qua đó sinh ra

điện năng và điều đặc biệt hơn là chính phân

tử này còn có khả năng tập hợp lại oxy và

hydro, tạo ra nước để sản sinh ra một nguồn

điện năng mới.

Nhà khoa học Herrera đã đặt tên cho

phát minh trên la Bat - Gen, một bộ pin có khả

năng sản xuất điện không hạn chế, luôn tự nạp

đầy, đồng thời còn là một máy phát điện.

Ông nhấn mạnh, quá trình nghiên cứu

kéo dài 4 năm đã giúp ông phát hiện ra một

vòng tuần hoàn liên tục, tách phân tử nước rồi

sản sinh ra điện năng mà không gặp bất kỳ

một trở ngại nào vì chất melanin tự giúp hấp

thụ các tia sáng trong môi trường, cũng như

trong các bức xạ điện từ ở xung quanh.

Theo vietnamplus.vn, 22/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Máy lọc nước từ gỗ cung cấp một phương pháp lọc nước di động, thân thiện với sinh thái

Các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ

hoàng gia KTH, Thụy Điển đã phát triển

được một vật liệu bẫy vi khuẩn, hiện đang

được thử nghiệm để sử dụng làm bộ lọc nước.

Bộ lọc này được chế tạo để sử dụng ở những

nơi không có cơ sở hạ tầng hoặc nguồn cung

cấp nước sạch.

Vật liệu kết hợp xenlulô gỗ với một

polyme tích điện dương, có thể bẫy vi khuẩn

bằng cách thu hút và liên kết vi khuẩn với bề

mặt vật liệu. Nó còn có triển vọng sử dụng

làm băng cuộn, thạch cao và bao bì có tác

dụng diệt khuẩn nhưng không giải phóng chất

độc ra môi trường.

Nhóm nghiên cứu đang xem xét khả

năng liệu vật liệu này cho phép xử lý nước

theo phương thức di động ngay tại hiện

trường nơi không có hạ tầng hoặc giếng nước

để đáp ứng nhu cầu.

Anna Ottenhall, đồng tác giả nghiên cứu

cho rằng: "Mục tiêu của chúng tôi là cung

cấp bộ lọc cho một hệ thống di động không

cần điện mà chỉ cần trọng lực để nước chưa

xử lý chảy qua hệ thống. Ý tưởng tuyệt vời là

chúng tôi đang bẫy vi khuẩn và loại bỏ chúng

khỏi nước bằng máy lọc tích điện dương. Vật

liệu bẫy vi khuẩn không làm cho bất kỳ hóa

chất độc hại nào rò rỉ vào trong nước như

nhiều phương pháp lọc nước khác".

Josefin Illergård thuộc Viện Công nghệ

hoàng gia KTH cho rằng các sợi kháng khuẩn

Page 42: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

42

này được ngâm trong dung dịch polyme tích

điện dương khiến cho bề mặt của chúng tích

điện dương. Vi khuẩn và vi-rút tích điện âm

nên bám vào bề mặt polyme tích điện dương.

Từ đó, chúng không thể tự do sinh sản và kết

quả là chúng chết. Ngoài ra, một trong những

ưu điểm của bề mặt phủ polyme là vi khuẩn sẽ

không phát triển bất cứ khả năng đề kháng

nào. Sau khi sử dụng, bộ lọc sẽ được đốt cháy.

Công nghệ mới là một trong nhiều

phương thức sáng tạo của vật liệu từ gỗ đang

được phát triển tại KTH. Mới đây, đơn vị này

đã công bố những tiến bộ đạt được với gỗ

xuyên thấu, pin mềm từ gỗ, xốp từ xenlulô gỗ

và thậm chí là chất thay thế polystyrene từ gỗ.

Theo vista.gov.vn, 22/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Tế bào bất tử có khả năng sản xuất hồng cầu vô hạn

Các nhà khoa học Anh chế tạo thành

công một loại tế bào bất tử, có khả năng sản

xuất hồng cầu vô hạn, giúp giảm phụ thuộc

vào nguồn máu hiến tặng.

Tế bào gốc BEL - A có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn máu hiến tặng.

Ảnh: Krisana Sennok.

Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học

Bristol, Anh đã tìm ra cách biến tế bào gốc của

người trưởng thành thành dòng tế bào gốc

erythroid "bất tử" đầu tiên trên thế giới,

Business Insider hôm qua đưa tin. Erythroid là

thuật ngữ chuyên ngành về quá trình tạo ra

hồng cầu. Họ đặt tên nó là tế bào gốc BEL - A.

Trước đây, các nhà nghiên cứu đã cố

gắng chuyển trực tiếp tế bào gốc thành hồng

cầu trưởng thành, nhưng hiệu suất của

phương pháp này rất thấp. Mỗi tế bào gốc chỉ

sản xuất được khoảng 50.000 hồng cầu trước

khi chết, trong khi một túi trữ máu bình

thường ở các bệnh viện chứa khoảng 1.000 tỷ

hồng cầu.

Trong phương pháp mới, các tế bào gốc

của người trưởng thành được lấy trong giai

đoạn phát triển sớm, nghĩa là có khả năng

phân chia và tạo ra hồng cầu mãi mãi mà

không chết, bỏ qua được bước thay thế tế bào

gốc mới.

Các tế bào BEL - A này được lựa chọn

từ máu hiến tặng với mục tiêu duy nhất là tạo

ra tế bào hồng cầu trưởng thành.

"Chúng tôi đã chứng minh được rằng có

một cách khả thi để sản xuất ổn định hồng

cầu cho sử dụng lâm sàng", trưởng nhóm

nghiên cứu Jan Frayne trao đổi với BBC.

"Những bệnh nhân hưởng lợi nhất là

những người mắc phải các căn bệnh phức tạp

như hồng cầu lưỡi liềm hoặc thiếu máu

thalassemia, đòi hỏi cần được truyền máu

nhiều lần. Phương pháp này không thay thế

việc hiến máu mà chỉ cung cấp giải pháp

điều trị chuyên khoa cho các nhóm bệnh nhân

cụ thể", Dave Anstee, giám đốc của Viện

nghiên cứu Y tế Quốc gia Anh về các sản

phẩm máu và cấy ghép, cho biết.

Các thử nghiệm tạo ra hồng cầu theo các

phương pháp cũ sẽ kết thúc vào cuối năm

2017. Theo kế hoạch, các nhà nghiên cứu sẽ

thử nghiệm sản phẩm từ BEL - A trên bệnh

nhân ngay sau đó. Nếu vượt qua được thử

nghiệm lâm sàng, phương pháp này có thể tạo

ra một cuộc cách mạng trong truyền máu.

Theo vnexpress.net, 29/03/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 43: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

43

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0016551 Hợp chất agomelatin hyđroclorua hyđrat, phương pháp điều chế và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Shan Hanbin (CN), Yuan

Zhedong (CN), Zhu Xueyan (CN),…

Quốc gia: Trung Quốc

Sáng chế đề cập đến hợp chất agomelatin

hyđroclorua hyđrat có công thức I, phương

pháp điều chế và dược phẩm chứa nó. Hợp

chất agomelatin hyđrohalogenua hyđrat thu

được nhờ phương pháp theo sáng chế gia tăng

đáng kể độ tan so với hợp chất agomelatin, và

do đó phù hợp hơn để sản xuất các dược

phẩm. Ngoài ra, sản phẩm có độ ổn định và độ

tinh khiết cao hơn. Bằng cách sử dụng phương

pháp này, sản phẩm có độ tinh khiết cao có thể

thu được thông qua quy trình đơn giản mà

không qua bất kỳ bước phức tạp nào.

trong đó X là Cl.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016562 Thiết bị trị liệu bằng ánh sáng

Tác giả: Tapper Jay (US), Blaustein

Lawrence A. (US), Shuter David (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hệ thống và thiết bị

trị liệu bằng ánh sáng bao gồm mặt nền của

đèn trị liệu dùng cho các đèn phát xạ như các

LED được bố trí trong cụm chi tiết bao gồm

vách thứ nhất mà ở đó các đèn được cố định

vào và vách thứ hai, gần hơn với bệnh nhân,

được phân cách với vách thứ nhất, trong đó

các đèn được lắp chìm vào đó. Vách thứ hai

bao gồm bề mặt phản xạ hướng về phía bệnh

nhân và nhiều lỗ mở lấy ánh sáng gần như

nằm thẳng hàng với các LED trên vách thứ

nhất để cấp sự phát xạ của đèn từ các đèn đến

tiếp xúc với người sử dụng. Các đèn và mạch

kết hợp được bố trí giữa vách thứ nhất và thứ

hai sao cho bề mặt phản xạ tương đối nhẵn và

phẳng về phía bệnh nhân.

Các vách có độ cứng dẻo để có khả

năng điều chỉnh một cách mềm dẻo đối với

người sử dụng. Thiết bị được gắn với người

sử dụng bằng một khung bao gồm khung mắt

kính hoặc kính bảo hộ bao gồm các mắt kính

để che chắn cho mắt của người sử dụng khỏi

sự phát xạ của đèn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

348/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 44: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

44

1-0016565 Chất điều biến thụ thể glucagon và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Aspnes Gary Erik (US), Didiuk

Mary Theresa (US), Filipski Kevin James

(US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (I):

hoặc muối dược dụng của nó, trong đó

R1, R

2, R

3, A

1, A2, A3, A4, L, B1, B2, B3 và

B4 là như được xác định trong bản mô tả.

Hợp chất có công thức I đã được phát hiện là

có tác dụng làm chất đối kháng hoặc chất chủ

vận ngược glucagon. Do đó, hợp chất có công

thức I và dược phẩm chứa nó là hữu dụng để

điều trị bệnh, rối loạn, hoặc tình trạng bệnh

trung gian bởi glucagon.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016595 Sử dụng progestogen để sản xuất thuốc dùng để điều trị bệnh lạc nội mạc tử cung

Tác giả: Govindarajan Mirudhubashini

(CA).

Quốc gia: Canada

Sáng chế đề cập đến việc sử dụng

progestogen để sản xuất thuốc dùng để điều

trị bệnh lạc nội mạc tử cung, bao gồm bệnh

lạc nội mạc tử cung bên ngoài, u nội mạc tử

cung, lạc màng trong tử cung, u tuyến cơ,

khối u tuyến cơ nhỏ ở các dây chằng tử cung

xương cùng, và khối u nhỏ lạc màng trong tử

cung, như bệnh lạc nội mạc tử cung thể sẹo,

trong đó progestogen được đưa vào vùng tổn

thương qua âm đạo, nội soi hoặc phẫu thuật

mở,bao gồm cả phẫu thuật mở bụng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016591 Peptit vòng làm vacxin để điều trị bệnh Alzheimer và phương pháp sản xuất peptit này

Tác giả: Hoogerhout Peter (NL), Van

Den Dobbelsteen, Gerarda, Petronella,

Johanna Maria (NL).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến peptit vòng dùng

làm vacxin để điều trị bệnh Alzheimer,

phương pháp sản xuất peptit này, kháng thể

được định hướng kháng lại peptit này và

phương pháp in vitro để chẩn đoán bệnh hoặc

tình trạng thoái hóa thần kinh có sử dụng

kháng thể này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016553 Mỹ phẩm dùng cho lông mi

Tác giả: Chiba Kiriko (JP)

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến mỹ phẩm dùng cho

lông mi dạng nhũ tương (chế phẩm bôi lông

mi) có khả năng làm giảm đến mức tối thiểu

Page 45: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

45

hiện tượng bị kẹt của lược mà không làm

giảm tác dụng làm quăn, có khả năng làm

dày lông mi một cách mỹ mãn và có cảm

giác mượt khi sử dụng, và tẩy rửa được bằng

nước nóng. Mỹ phẩm dùng cho lông mi này

bao gồm (a) nhũ tương của copolyme alkyl

acrylat với lượng nằm trong khoảng từ 20

đến 30% khối lượng, (b) chất làm ẩm với

lượng nằm trong khoảng từ 3 đến 6% khối

lượng, và (c) muối của axit polyacrylic với

lượng nằm trong khoảng từ 0,1 đến 0,4%

khối lượng. Tốt hơn là mỹ phẩm này còn

chứa (d) chất tan được trong nước với lượng

nằm trong khoảng từ 0,5 đến 6% khối lượng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016619 Mỹ phẩm dạng lỏng

Tác giả: Ono Akinori (JP), Suzuki

Kazunobu (JP), Yoshida Kyoko (JP)

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến mỹ phẩm dạng

lỏng từ trong suốt đến bán trong suốt, trong

đó mỹ phẩm dạng lỏng duy trì một cách ổn

định độ trong suốt của nó (giá trị L) và mang

lại cảm giác mềm khi sử dụng mà không dính

thậm chí sau khi được đưa vào các điều kiện

khắc nghiệt như làm lạnh và bảo quản ở nhiệt

độ cao. Mỹ phẩm dạng lỏng từ trong suốt đến

bán trong suốt chứa: (a) dầu với lượng nằm

trong khoảng từ 0,01 đến 3% khối lượng; và

(b) chất hoạt động bề mặt ưa nước được chọn

từ dầu thầu dầu được hydro hóa

polyoxyetylen và polyoxyetylen phytosterol;

và có giá trị L bằng 60 hoặc lớn hơn; trong

đó rượu isostearylic chứa (a) dầu với lượng

60% khối lượng hoặc lớn hơn. Tốt hơn nếu

mỹ phẩm còn chứa (c) chất hoạt động bề mặt

ưa chất béo được chọn từ polyglyxeryl

diisostearat, sorbitan sesquiisostearat và

sorbitan sesquioleat.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016541 Chế phẩm tẩy giặt và phương pháp xử lý vải dệt bằng chế phẩm này Tác giả: Kwan-Ho Choi (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến chế phẩm tẩy giặt

chứa từ 2 đến 70% trọng lượng chất hoạt

động bề mặt và từ 0,0001 đến 10% trọng

lượng thuốc nhuộm polyme có trọng lượng

phân tử nhỏ nhất là 500, trong đó thuốc

nhuộm polyme có thể thu được bằng phản

ứng polyme hoá của: (a) thuốc nhuộm

monome là alken không tích điện liên kết

cộng hoá trị với thuốc nhuộm, (b) một hoặc

nhiều comonome alken.

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến

phương pháp xử lý vải dệt ở quy mô gia đình.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016556 Chế phẩm giặt tẩy quần áo dạng bột và phương pháp giặt tẩy quần áo sử dụng chế phẩm này

Tác giả: Nishi Toshiki (JP), Otani

Yoshinori (JP), Himo Kiomi (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm giặt tẩy

quần áo dạng bột, trong đó chế phẩm giặt tẩy

dạng bột này chứa: (A) chất hoạt động bề mặt

chứa (a1) alkylbenzensulfonat và (a2)

Page 46: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

46

alkylsulfat, (B) một hoặc nhiều hợp chất

được chọn từ anhydrit của magie sulfat và

hydrat của magie sulfat và (C) một hoặc

nhiều hợp chất được chọn từ zeolit và

tripolyphosphat, trong đó tỷ lệ khối lượng

(a1)/(a2) là nằm trong khoảng từ 1 đến 5 và

tổng lượng (a1) và (a2) trong (A) là nằm

trong khoảng từ 60% đến 100% khối lượng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

***************

1-0016533 Chế phẩm tạo lớp phủ hóa rắn được bằng bức xạ, vật liệu

bao gói và phương pháp phủ vật liệu bao gói

Tác giả: Craun Gary P (US), Gardner

Kenneth James (US), Miller Patricia (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm tạo lớp

phủ hóa rắn được bằng bức xạ. Theo một

phương án thực hiện, chế phẩm tạo lớp phủ

hóa rắn được bằng bức xạ chứa hợp chất có

nhóm chức (met)acrylat và hợp chất

(met)acrylat tăng cường bám dính. Chế phẩm

tạo lớp phủ hóa rắn được bằng bức xạ cũng

có thể bao gồm hợp chất có nhóm chức

(mel)acrylat, poly(met)acrylat và chất pha

loãng hoạt tính. Hợp chất có nhóm chức

(met)acrylat có thể điều chế được bằng phản

ứng của isoxyanat đa chức, (met)acrylat có

nhóm chức polyol và hyđroxyl với sự có mặt

của chất xúc tác. Ngoài ra, sáng chế còn đề

cập đến vật liệu bao gói bao gồm chế phẩm

tạo lớp phủ này và phương pháp phủ vật liệu

bao gói.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016609 Vật dụng thấm hút được bao gói riêng

Tác giả: Kazumitsu Furuta (JP),

Shinsuke Nagahara (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến vật dụng thấm hút

được bao gói riêng được gấp theo đường gấp

bao gói riêng, vật dụng thấm hút này bao

gồm tấm mặt, tấm đáy, và thân thấm hút đặt

giữa cả hai lớp, và thân thấm hút có: rãnh

khép kín ngăn ngừa sự rò rỉ theo vòng tròn

được tạo ra trên mặt tấm mặt của vật dụng

thấm hút, rãnh khép kín ngăn ngừa sự rò rỉ

được bao gồm phần co hẹp được tạo ra ở vị

trí của đường gấp bao gói riêng, phần co hẹp

hướng vào phía trong rãnh khép kín ngăn

ngừa sự rò rỉ trên hình chiếu bằng, vật dụng

thấm hút có rãnh hình cung trung tâm kéo dài

theo chiều ngang gần như song song với

đường gấp bao gói riêng, rãnh hình cung

trung tâm nằm phía trong rãnh khép kín ngăn

ngừa sự rò rỉ ở vùng mà phần co hẹp và

đường gấp bao gói riêng được bố trí.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016594 Lớp nền được cán các tông ép nhựa trong nước

Tác giả: Palm Gregory O. (US), Brown

Martin (US), Yu Qing Claire (CN), CAO

Bangji (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến lớp nền được cán

các tông ép nhựa trong nước của tấm ốp trần

treo chứa sợi khoáng với tỷ lệ khoảng 1/2,

chất kết dính tinh bột với tỷ lệ giới hạn ở

Page 47: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

khoảng 1/8, giấy in báo với tỷ lệ giới hạn ở

khoảng 1/8, và hạt thủy tinh xốp với tỷ lệ

khoảng 1/4, tính theo trọng lượng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016589 Sản phẩm kích thích miễn dịch dùng qua đường miệng để dùng trong nghề nuôi trồng thủy sản và quy trình sản xuất sản phẩm này

Tác giả: Streitenberger Sergio A (ES),

Penalver Mellado Marcos (ES), Lopez Mas

José A. (ES), …

Quốc gia: Tây Ban Nha

Sáng chế đề cập đến sản phẩm kích thích

miễn dịch dùng qua đường miệng chứa

xytokin được bao vi nang và polyme bảo vệ

tan trong ruột để bảo vệ xytokin, xytokin này

là xytokin ở cá, động vật thân mềm hoặc động

vật giáp xác, tốt hơn là xytokin tái tổ hợp

chẳng hạn như yếu tố hoại tử khối u α (TNF

α) được biểu hiện quá mức trong vi sinh vật

chủ. Sáng chế cũng đề cập đến quy trình sản

xuất sản phẩm kích thích miễn dịch này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016532 Chế phẩm tạo lớp phủ gốc nước để tạo màng phủ đơn và màng phủ thu được bằng cách phủ chế phẩm này

Tác giả: Lee Chai-Ki (KR), Park

Young-Tae (KR), Park Peng-Sam (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến chế phẩm tạo lớp

phủ gốc nước để tạo màng phủ đơn bao gồm

nhựa polyolefin không chứa halogen, acryl

polyol, nhũ tương acryl, và dung môi. Theo

sáng chế, độ bám dính với nền polyolefin là

tuyệt vời, và các đặc tính vật lý/hóa học có

thể duy trì được bằng màng phủ một lớp thay

vì màng phủ hai lớp hiện đang được sử dụng,

bằng chế phẩm tạo lớp phủ gốc nước không

chứa halogen có các đặc tính vật lý/hóa học

tương đương hoặc tốt hơn so với chế phẩm

tạo lớp phủ chứa halogen hoặc chế phẩm tạo

lớp phủ dầu hiện nay.

Do các hiệu quả này có thể đạt được chỉ

bằng màng phủ một lớp, nên có thể giảm

được mức tiêu thụ nguyên liệu tạo lớp phủ

trong khoảng từ 30% đến 40% so với phương

pháp hiện nay, và cụ thể là có thể giảm được

giá thành nhờ giảm thiết bị cần dùng cho

màng phủ hai lớp, năng lượng để làm khô

màng phủ, tăng kết dính lớp phủ, tăng năng

suất, và các hiệu quả tương tự.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016547 Sol titan dioxit dạng keo và phương pháp điều chế sol titan dioxit dạng keo này

Tác giả: Fu Guoyi (US), Monk Billie Jo

M. (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến sol titan dioxit

trong suốt hoặc trong mờ, ổn định bao gồm

titan dioxit vô định hình và tác nhân giải keo

hữu cơ hữu dụng để sử dụng làm chất kết

dính đặc biệt. Sáng chế cũng đề cập đến

phương pháp điều chế các sol theo sáng chế.

Các sol theo sáng chế được điều chế từ các

tiền chất titan dioxit bao gồm các hợp chất

titan hữu cơ và các muối titan tan trong nước,

sau đó chúng được xử lý để tạo ra kết tủa

Page 48: BẢN TIN THÁNG 03/2017 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2017/08/Bantin_thanhtuu_KHCN-TG_03...tay giả cảm nhận được va chạm ... Tìm ra cách lọc sạch

titan dioxit vô định hình. Titan dioxit vô định

hình được phân tán lại và được giải keo để

tạo ra hỗn hợp trong suốt hoặc trong mờ. Các

sol theo sáng chế là ổn định trong một

khoảng thời gian dài.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016592 Chế phẩm diệt côn trùng và quy trình điều chế chế phẩm này

Tác giả: Jadhav Prakash Mahadev (IN),

Shroff Jaidev Rajnikant (IN).

Quốc gia: Ấn Độ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm bảo vệ cây

trồng có độ ổn định trong bảo quản chứa một

hoặc nhiều hợp chất clonicotynyl, với lượng

nằm trong khoảng từ 0,1% đến 5% trọng

lượng của chế phẩm, một hoặc nhiều hợp

chất thuộc nhóm hợp chất phospho hữu cơ

với lượng nằm trong khoảng từ 30% đến

75% trọng lượng của chế phẩm và chất mang

và tá dược nông dụng thông thường với

lượng nằm trong khoảng từ 69,9% đến 20%

trọng lượng. Sáng chế cũng đề cập đến quy

trình điều chế chế phẩm bảo vệ cây trồng có

độ ổn định trong bảo quản, trong đó ít nhất

một trong số các hoạt chất được tạo ra cùng

với chất bao là polyme tan trong nước.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016596 Phương pháp làm giàu selen hữu cơ cho vi sinh vật quang hợp sử dụng axit selenohydroxy và vi sinh vật thu được bằng phương pháp này

Tác giả: Kudla Bernard (FR), De Baene

Frédéric (FR), Lange Marc (FR).

Quốc gia: Pháp

Sáng chế đề cập đến phương pháp làm

giàu selen hữu cơ cho vi sinh vật quang hợp

sử dụng hợp chất ở dạng axit selenohydroxy,

muối hoặc este hoặc amit của các hợp chất

này. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến vi

sinh vật được làm giàu selen hữu cơ thu được

bằng phương pháp này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************