bẢn tin thÁng 04/2017 -...

40
1 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 04/2017 (Phục vụ cung cấp thông tin trọn gói) A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Phương pháp in 3D mới có thể tạo ra các vật thể biến hình Chỉ cần thêm nhiệt, có thể tạo ra những vật liệu in 4D mới Tạo ảnh độ phân giải cao bằng kính hiển vi thông thường Xét nghiệm mới có thể xác định nhanh ca nhiễm lao Vai trò quan trọng của ánh nắng Mặt trời đối với độ nhạy cảm của da nhân tạo Phương pháp đột phá bắt tế bào ung thư tự phá hủy Phát triển thành công hệ thống vận chuyển thuốc trúng đích đến các tế bào thần kinh cụ thể Mô hình gelatine mới có thể thay thế cho da người Vỏ cam chanh có thể thay thế cho than hoạt tính Chế tạo thành công vật liệu nhân tạo bằng cách sắp xếp các nguyên tử Biến nước biển thành nước ngọt chỉ bằng một màng lọc mỏng Lớp phủ có khả năng ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn đường ống dẫn dầu Phương pháp mới để giảm tiếng ồn giao thông đường bộ Hệ thống “Lá bionic” có khả năng sản xuất phân bón B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM 1-0016579 Bàn chải đánh răng có lắp động 1-0016598 Dụng cụ chăm sóc răng miệng 1-0016439 Mỹ phẩm dạng nhũ tương nước trong dầu 1-0016588 Dạng thuỷ tinh rắn của hợp chất metyl 2-xyano-3,12-đioxoleana-1,9(11)-đien- 28-oat (CDDO metyl este) và dược phẩm chứa hợp chất này 1-0016590 Hợp chất vòng xoắn làm chất ức chế 11-beta hydroxyl steroit dehydrogenaza typ 1 và dược phẩm chứa hợp chất này 1-0016600 Hợp chất pyrimidin được liên kết oxy, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này 1-0016621 Hợp chất pyrazolopyrimidinthion, muối và solvat của hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này 1-0016398 Kháng thể gắn kết với STEAP-1 và thể tiếp hợp miễn dịch chứa kháng thể này dùng để điều trị bệnh ung thư 1-0016401 Hợp chất triazolopyridin, phương pháp điều chế chúng, dược phẩm chứa chúng, dược phẩm phối hợp chứa chúng và các hợp chất trung gian sử dụng để điều chế chúng 1-0016403 Hợp chất morpholin thiomorpholin được thế dược phẩm chứa chúng 1-0016405 Hợp chất chống khối u, quy trình điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này

Upload: others

Post on 31-Aug-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN

BẢN TIN THÁNG 04/2017 (Phục vụ cung cấp thông tin trọn gói)

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Phương pháp in 3D mới có thể tạo ra các vật

thể biến hình

Chỉ cần thêm nhiệt, có thể tạo ra những vật

liệu in 4D mới

Tạo ảnh độ phân giải cao bằng kính hiển vi

thông thường

Xét nghiệm mới có thể xác định nhanh ca

nhiễm lao

Vai trò quan trọng của ánh nắng Mặt trời đối

với độ nhạy cảm của da nhân tạo

Phương pháp đột phá bắt tế bào ung thư tự

phá hủy

Phát triển thành công hệ thống vận chuyển

thuốc trúng đích đến các tế bào thần kinh cụ

thể

Mô hình gelatine mới có thể thay thế cho da

người

Vỏ cam chanh có thể thay thế cho than hoạt

tính

Chế tạo thành công vật liệu nhân tạo bằng

cách sắp xếp các nguyên tử

Biến nước biển thành nước ngọt chỉ bằng một

màng lọc mỏng

Lớp phủ có khả năng ngăn chặn tình trạng tắc

nghẽn đường ống dẫn dầu

Phương pháp mới để giảm tiếng ồn giao

thông đường bộ

Hệ thống “Lá bionic” có khả năng sản xuất

phân bón

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0016579 Bàn chải đánh răng có lắp động

1-0016598 Dụng cụ chăm sóc răng miệng

1-0016439 Mỹ phẩm dạng nhũ tương nước

trong dầu

1-0016588 Dạng thuỷ tinh rắn của hợp chất

metyl 2-xyano-3,12-đioxoleana-1,9(11)-đien-

28-oat (CDDO metyl este) và dược phẩm

chứa hợp chất này

1-0016590 Hợp chất vòng xoắn làm chất ức

chế 11-beta hydroxyl steroit dehydrogenaza

typ 1 và dược phẩm chứa hợp chất này

1-0016600 Hợp chất pyrimidin được liên kết

oxy, quy trình điều chế và dược phẩm chứa

hợp chất này

1-0016621 Hợp chất pyrazolopyrimidinthion,

muối và solvat của hợp chất này và dược

phẩm chứa hợp chất này

1-0016398 Kháng thể gắn kết với STEAP-1

và thể tiếp hợp miễn dịch chứa

kháng thể này dùng để điều trị bệnh ung thư

1-0016401 Hợp chất triazolopyridin, phương

pháp điều chế chúng, dược phẩm chứa chúng,

dược phẩm phối hợp chứa chúng và các hợp

chất trung gian sử dụng để điều chế chúng

1-0016403 Hợp chất morpholin và

thiomorpholin được thế và

dược phẩm chứa chúng

1-0016405 Hợp chất chống khối u, quy trình

điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa

hợp chất này

2

1-0016482 Hợp chất oxindol được thế và

dược phẩm chứa hợp chất này

1-0016481 Sản phẩm protein lên men và

phương pháp sản xuất sản phẩm protein lên

men

1-0016408 Chủng Corynebacterium sp. có

năng suất sản xuất L-lysin cải thiện và

phương pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử

dụng chủng này

1-0016429 Bao bì đựng thức ăn trẻ em dạng

bột và phương pháp sản xuất bao bì này

1-0016558 Chế phẩm thích hợp để sử dụng

trong công trình xây dựng và quy trình sản

xuất chế phẩm này

1-0016560 Nắp đậy cho bình chứa

1-0016617 Chế phẩm nhựa để đúc xốp liên

kết ngang, vật đúc xốp liên kết ngang và

phương pháp sản xuất vật đúc xốp liên kết

ngang

1-0016406 Quy trình lọc nước trong bể và

thiết bị hút

1-0016404 Chi tiết chống rung và chống ồn

dùng cho thiết bị in chứa chế phẩm đàn hồi

dẻo nhiệt

1-0016410 Bộ nhận dạng thứ hai bằng kỹ

thuật điện tử số cho phương tiện giao thông

1-0016411 Chế phẩm dầu bôi trơn dùng để

bôi trơn động cơ ô tô và phương pháp bôi

trơn động cơ

1-0016413 Vải làm mát và phương pháp sản

xuất vải này

1-0016414 Hợp chất đổi màu theo ánh sáng,

chế phẩm và vật dụng chứa hợp chất này

1-0016422 Đế trong của giày

1-0016423 Phương pháp và thiết bị mã hóa

và giải mã dữ liệu viđeo

1-0016425 Thiết bị in, phương pháp thay đổi

bố cục của trang lôgic và phương tiện lưu trữ

1-0016427 Axit nucleic phân lập được mã

hoá kháng thể kháng yếu tố D, tế bào chủ, vật

truyền chứa axit nucleic này và phương pháp

tạo ra kháng thể kháng yếu tố D

1-0016440 Nhiên liệu rắn

1-0016456 Chế phẩm nhựa epoxy lỏng và

chất kết dính chứa chế phẩm này

1-0016464 Máy và phương pháp dán nhãn

vật chứa

1-0016466 Kẹp dùng làm dụng cụ kẹp hồ sơ

1-0016470 Hệ thống làm sạch dùng để làm

sạch đường ống

1-0016475 Phương pháp sản xuất ure, thiết bị

sản xuất ure và phương pháp làm giảm sự

phát thải amoniac trong tháp tạo hạt của thiết

bị sản xuất ure hiện hành

1-0016476 Hợp chất heteroarylbenzamit chứa

nhóm thế haloalkyl và dược phẩm chứa hợp

chất này

1-0016479 Thiết bị cảnh báo xe đang đến gần

dùng cho xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai

bên

1-0016483 Bộ panen, panen hỗn hợp và

panen vách

1-0016485 Phương pháp và thiết bị để điều

khiển cảnh báo cho người sử dụng

1-0016501 Vật kê dùng cho ván khuôn cốt

thép

3

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Phương pháp in 3D mới có thể tạo ra các vật thể biến hình

Phương pháp in 3D mới có thể tạo ra các

vật thể biến hình Một nhóm các nhà nghiên

cứu Viện Công nghệ Georgia, Trường Đại học

Công nghệ và thiết kế Singapo (SUTD) và

Trường Đại học Giao thông Tây An Trung

Quốc đã phát triển thành công phương pháp in

3D có thể tạo ra các vật thể có thể biến đổi

thành nhiều hình dạng khác nhau khi phản ứng

với nhiệt bằng cách in các lớp polymer nhớ

hình (shape memory polymers) với mỗi lớp

được thiết kế sẽ phản ứng khác nhau khi tiếp

xúc với nhiệt. Công trình nghiên cứu này được

tài trợ bởi Văn phòng Nghiên cứu Khoa học

Không lực Hoa Kỳ, Quỹ Khoa học Quốc gia

Hoa Kỳ và Quỹ Nghiên cứu Quốc gia Singapo

thông qua Trung tâm SUTD DManD và mới

đây đã được công bố trên tạp chí Science

Advances.

“Phương pháp tiếp cận mới này làm đơn

giản hóa đáng kể và tiến tới phát triển khả

năng in 4D bằng cách kết hợp trực tiếp các

bước xử lý sau quá trình lập trình cơ học vào

quá trình xử lý in 3D”, Jerry Qi, giáo sư tại

Trường Kỹ thuật Cơ khí George W. Woodruff

tại Georgia Tech cho biết. “Điều này cho phép

các mô phỏng máy tính có thể thiết kế, in 3D

các thành phần với có độ phân giải lớn và sau

đó biến đổi trực tiếp và nhanh chóng thành

các hình dạng cực bền mới bằng phương pháp

nung nhiệt đơn giản. Đồng thời, phương pháp

tiếp cận này có thể đảm bảo thời gian in và

tiết kiệm vật liệu đến 90%, đồng thời loại bỏ

hoàn toàn các quá trình cơ học tốn thời gian

khỏi tiến trình thiết kế và sản xuất”.

Để xác định tiềm năng của quá trình xử

lý mới này, nhóm nghiên cứu đã chế tạo một

số vật thể có thể uốn và mở rộng nhanh chóng

khi nhúng trong nước nóng - bao gồm một

bông hoa có cánh hoa uốn cong như một bông

cúc thật khi phản ứng với ánh sáng mặt trời và

một vật hình dạng lưới có thể mở rộng ra gần

gấp tám lần kích thước ban đầu của nó.

“Ở nhiệt độ phòng, vật liệu composite do

chúng tôi tạo ra có thể cho phép một vật liệu

nào đó trở nên mềm ra nhưng nó vẫn có thể

lập trình để kiềm hãm ứng suất bên trong,

trong khi đó vật liệu khác thì cứng. Nhóm

nghiên cứu đã dùng mô phỏng máy tính để

thiết kế các thành phần composite mà trong

đó các vật liệu cứng có hình dạng và kích

thước có thể ngăn chặn sự giải phóng các ứng

suất bên trong vật liệu đã được lập trình khỏi

vật liệu mềm sau khi in 3D. Khi gia nhiệt

nóng, vật liệu cứng sẽ mềm ra và cho phép vật

liệu mềm giải phóng ứng suất và tạo ra sự

thay đổi hình dạng sản phẩm rất ấn tượng”,

Zhen Ding, nhà nghiên cứu bậc sau tiến sỹ tại

Đại học Công nghệ và thiết kế Singapo.

Theo nhóm nghiên cứu cho biết, các vật

thể 4D mới có thể tạo ra hàng loạt các sản

phẩm mới rất đặc biệt. Chẳng hạn như cho

phép các sản phẩm có thể xếp chồng lên nhau

hoặc cuộn lại để đưa xuống tàu và sau đó mở

rộng lập tức khi cần sử dụng. Cuối cùng, công

nghệ này có thể cho phép các thành phần có

thể phản ứng với các kích thích như nhiệt độ,

độ ẩm hoặc ánh sáng theo những cách mà có

thể tạo ra các cấu trúc không gian, các thiết bị

y tế có thể triển khai, robot, đồ chơi và các

loại cấu trúc khác.

“Bước tiến quan trọng của nghiên cứu

này là phương pháp in 4D, cho phép tạo ra

những sản phẩm phức tạp có độ phân giải cao

3-D và rất có triển vọng tạo ra vô số các ứng

dụng trên các thiết bị y sinh học, thiết bị điện

tử 3D và các sản phẩm tiêu dùng, và thậm chí

mở ra một mô hình mới trong thiết kế sản

phẩm”, Martin L. Dunn, Giám đốc Trung tâm

4

Thiết kế và Sản xuất kỹ thuật số SUTD nhấn

mạnh.

Theo vista.gov.vn, 17/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Chỉ cần thêm nhiệt, có thể tạo ra những vật liệu in 4D mới

Những vật thể có thể thay đổi hình dạng

trong vài giây sau khi được đặt vào nhiệt độ,

đây là một kỹ thuật in 4D mới. Một ngày nào

đó có thể được sử dụng để tạo ra các thiết bị y

tế tự phát triển trong cơ thể trong suốt quá

trình phẫu thuật. Các kỹ sư đã tạo ra lưới nhựa

in 3D nở ra nhanh chóng khi ngâm trong nước

nóng và một bông hoa nhân tạo có thể đóng

cánh hoa của nó tương tự như thực vật trong tự

nhiên như các thí nghiệm được thiết kế để

chứng minh phương pháp in 4D này.

Đồng tác giả nghiên cứu Jerry Qi - Giáo

sư của Trường Kỹ thuật Cơ khí George W.

Woodruff thuộc Viện Công nghệ Georgia ở

Atlanta - Hoa Kỳ, cho biết: Kỹ thuật mới này

làm đơn giản hóa quá trình "giảng dạy" về

các vật liệu in 3D để thay đổi hình dạng khi

chúng được kích hoạt để làm như vậy. Trước

đây, chúng tôi phải chuẩn bị và lập trình các

vật liệu sau khi in bằng phương pháp 3D.

Chúng tôi đã phải làm nóng nó và kéo nó ra

và sau đó làm nguội lại vì vật liệu được

nghiên cứu ở hình thức mới. Nó tương đối

đơn giản. Với cách tiếp cận mới, chúng tôi đã

sẵn sàng với chương trình có trong máy in.

Các nhà nghiên cứu đang sử dụng hai

loại vật liệu được kết hợp cẩn thận trong cấu

trúc in 3D để tạo ra hiệu ứng chuyển đổi hình

dạng mong muốn. Vật liệu mềm giữ năng

lượng thay đổi hình dạng nhưng trong trạng

thái nguội, năng lượng của polyme mềm được

chứa bởi vật liệu cứng khác như thủy tinh. Tuy

nhiên, vật liệu cứng này sẽ mềm khi tiếp xúc

với nhiệt, cho phép các polymer mềm tiếp

nhận. Vật liệu được thiết kế để nhớ hình dạng

thứ hai và mặc định khi nó được làm nóng.

Jerry Qi, cho biết: Bạn có thể làm nóng

nó và làm biến dạng cấu trúc thành một hình

dạng mới, nó là hình dạng thứ 3 và sẽ giữ

hình dạng đó cho đến khi bạn làm nóng nó

lên. Sau đó, nó biến đổi trở lại thành hình

dạng thứ hai. Các kỹ thuật in 4D trước đã có

thể tạo ra các vật liệu thay đổi hình dạng của

chúng chỉ tạm thời và sau một thời gian, sẽ

trở lại hình dạng in ban đầu. Trong nghiên

cứu mới này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng

một vật liệu thay đổi hình dạng khi nó được

làm nóng đến khoảng 122 độ Fahrenheit (50

độ Celsius) nhưng bằng cách chế tạo các đặc

tính của vật liệu cứng, có thể chọn nhiệt độ tại

đối tượng chuyển đổi.

Martin Dunn - Giáo sư về kỹ thuật cơ

khí tại Đại học Công nghệ và Thiết kế

Singapo, cùng làm việc với nhóm nghiên cứu:

Nó hứa hẹn cho phép mang đến vô số ứng

dụng trên các thiết bị y sinh học, điện tử 3D

và các sản phẩm tiêu dùng. Ví dụ các linh

kiện điện tử có thể được in ở dạng phẳng và

sau đó chúng được lắp ráp thành các thiết bị,

chúng có thể "phóng to" vào các hình dạng

3D hữu ích của chúng.

Jerry Qi nghĩ rằng các thiết bị y sinh học

như giá đỡ, những ống nhỏ được sử dụng để

mở rộng các động mạch bị nghẹt để ngăn

ngừa đột quỵ, có thể được tạo ra bằng cách sử

dụng kỹ thuật này. Các giá đỡ được in 4D này

sẽ mở rộng bên trong mạch máu, tự động kích

hoạt chỉ bằng cách tiếp xúc với hơi nóng của

cơ thể con người. Hiện nay, các bác sĩ phẫu

thuật phải thổi phồng giá đỡ bằng các khí cầu

gắn vào cuối ống thông qua đó thiết bị được

lắp vào. Stent là một khung đỡ bằng kim loại

được đặt trong lòng động mạch vành, nhằm

mục đích mở rộng lòng mạch vành bị hẹp và

5

giữ nó không bị hẹp lại. Có hai loạistent mạch

vành: stent thường và stent phủ thuốc.

Kỹ thuật mới này phù hợp hơn cho các

ứng dụng thực tiễn hơn các phương pháp dựa

vào hydrogel. Các vật thể mô tả trong nghiên

cứu mới này có thể chuyển đổi hoàn toàn

trong vòng chưa đầy 10 giây, so với khoảng 7

phút cho một vật liệu dựa trên hydrogel đã

được một nhóm các nhà nghiên cứu từ MIT

đưa ra vài năm trước. Công nghệ in 4D dựa

trên hydrogel phụ thuộc vào sự kết hợp giữa

hydrogel và không áp lực trương nở của

polymer sợi filamăng. Khi đun sôi trong

nước, hydrogel nở ra, buộc các sợi filamăng

vào một hình dạng mới. Trong vật liệu

hydrogel, sự thay đổi hình dạng là do sự hấp

thụ nước.Nhưng đó là một quá trình tương

đối chậm, phải mất thời gian, đặc biệt nếu có

cấu trúc lớn.

Nghiên cứu này đã được công bố trên

tạp chí Science Advances!

Theo vista.gov.vn, 20/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Tạo ảnh độ phân giải cao bằng kính hiển vi thông thường

Các nhà nghiên cứu Trường Đại học

MIT đã phát triển thành công một kỹ thuật

tạo ảnh các mẫu mô có độ phân giải rất cao

với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ so với chi

phí của các kỹ thuật khác có độ phân giải

tương tự.

Kỹ thuật mới này dựa vào việc mở rộng

mô trước khi tạo ảnh nó bằng kính hiển vi ánh

sáng thông thường. Hai năm trước, nhóm

nghiên cứu của MIT đã chỉ ra rằng rằng có

thể mở rộng các khối mô gấp 100 lần có thể

tạo ra độ phân giải của hình ảnh vào khoảng

60 nanomét. Bây giờ, các nhà nghiên cứu cho

thấy việc mở rộng mô này thêm 1 lần nữa

trước khi tạo ảnh có thể làm tăng độ phân giải

lên khoảng 25 nanomét.

Ed Boyden, phó giáo sư kỹ thuật sinh

học não bộ và khoa học nhận thức tại MIT

cho biết, cấp độ phân giải này cho phép các

nhà nghiên cứu có thể quan sát thấy như các

protein bó cụm lại với nhau trong các mô

hình phức tạp ở các khớp thần kinh não, trợ

giúp các nơ-ron giao tiếp với nhau. Nó cũng

có thể giúp các nhà nghiên cứu lập bản đồ các

mạch thần kinh.

Cách tiếp cận này cũng có thể dùng để

mô tả các hiện tượng khác như sự tương tác

giữa các tế bào ung thư và các tế bào miễn

dịch, để phát hiện mầm bệnh mà không cần

phải dùng thiết bị đắt tiền và để lập bản đồ

các loại tế bào của cơ thể.

Công trình nghiên cứu đã được công bố

trên tạp chí Nature Methods.

Để mở rộng các mẫu mô, các nhà

nghiên cứu nhúng chúng vào trong chất gel

đậm đặc được tạo ra từ polyacrylate, một loại

vật liệu siêu thấm hút, và được dùng trong

trong các loại tã trẻ em và người lớn. Trước

khi chất gel được hình thành, các nhà nghiên

cứu tiến hành ghi nhãn các protein tế bào mà

họ muốn tạo ảnh bằng cách sử dụng các

kháng thể liên kết với các mục tiêu cụ thể.

Những kháng thể này sẽ ghi nhớ các "mã

vạch" được tạo thành từ ADN, lần lượt gắn

chặt với các phân tử liên kết chéo mà kết hợp

với các polyme để hợp thành chất gel có thể

giãn nở. Sau đó họ phá vỡ các protein gắn với

nhau, cho phép các mã vạch DNA nở rộng ra

khi gel phồng lên. Sau đó có thể dán nhãn các

mẫu được phóng to này bằng các đầu dò

huỳnh quang gắn các mã vạch ADN, và tạo

ảnh bằng kính hiển vi cộng hưởng có sẵn trên

6

thị trường, độ phân giải của kính hiển vi này

thường ở mức giới hạn hàng trăm nanomét.

Boyden cho biết, khi sử dụng phương

pháp tiếp cận này, các nhà nghiên cứu trước

đây chỉ có thể thu được độ phân giải của ảnh

vào khoảng 60 nanomét. Trong khi đó các

phân tử sinh học đơn lẻ có kích cỡ nhỏ hơn

rất nhiều lần, với kích cỡ chỉ 5 nanomet hoặc

thậm chí còn nhỏ hơn. Các phiên bản ban đầu

của kính hiển vi mở rộng (expansion

microscopy) rất hữu ích đối với nhiều vấn đề

khoa học nhưng không đủ hiệu suất tạo ảnh

có độ phân giải cực lớn như các kính hiển vi

điển tử.

Trong nghiên cứu ban đầu về kính hiển

vi mở rộng của nhóm nghiên cứu, họ đã phát

hiện thấy rằng thiết bị này có thể mở rộng các

khối mô hơn 100 lần khi giảm số lượng các

phân tử liên kết chéo giam giữ polymer theo

một sơ đồ có trật tự. Tuy nhiên, điều này làm

cho các mô không ổn định.

Boyden, một thành viên của Phòng thí

nghiệm Media và Viện Nghiên cứu não bộ

McGovern cho biết: “Nếu giảm mật độ liên

kết chéo, các polyme không còn giữ được tổ

chức của chúng trong suốt quá trình mở rộng

do đó sẽ không thể thu thập thông tin về nó”.

Thay vào đó, trong nghiên cứu mới nhất

của nhóm nghiên cứu, họ đã sửa đổi kỹ thuật

này nhằm sau khi mở rộng mô đầu tiên, họ có

thể tạo ra một chất gel mới có thể làm nở

rộng mô thêm một lần nữa. Cách tiếp cận này

được họ gọi là “sự mở rộng lặp lại”.

Khi ứng dụng kỹ thuật mới này, nhóm

nghiên cứu đã tạo ra được ảnh mô với độ

phân giải tăng thêm 25 nanomet, tương tự với

các kỹ thuật tạo ảnh có độ phân giải cao như

kính hiển vi phát huỳnh quang siêu nét

(stochastic optical reconstruction microscopy

(STORM). Tuy nhiên, kính hiển vi mở rộng

có kết cấu và điều khiển không quá phức tạp,

giá thành rẻ hơn rất nhiều, Boyden nói.

Phương pháp này cũng cho hình ảnh nhanh

hơn nhiều và do đó tương thích với phương

pháp tạo ảnh 3-D kích cỡ lớn.

Mặc dù độ phân giải của kính hiển vi mở

rộng chưa tương xứng với kính hiển vi quét

điện tử (khoảng 5 nanomét) hoặc kính hiển vi

điện tử truyền qua (khoảng 1 nanomet). Tuy

nhiên, kính hiển vi điện tử lại rất đắt tiền và

không có sẵn trên thị trường. Với những loại

kính hiển vi này, rất khó để các nhà nghiên

cứu gắn nhãn các protein cụ thể.

Trong nghiên cứu đăng trên tạp chí

Nature Methods, nhóm của MIT đã sử dụng

kỹ thuật mở rộng lặp lại để tạo ảnh cho các

khớp thần kinh - các kết nối giữa các nơ-ron

để cho phép chúng liên lạc với nhau. Trong

nghiên cứu kính hiển vi mở rộng ban đầu của

họ, các nhà nghiên cứu cũng đã tạo ảnh được

các protein “giàn giáo”, điều này có thể giúp

thiết lập hàng trăm loại protein khác tìm thấy

trong khớp thần kinh. Với kỹ thuật mới này,

độ phân giải được tăng lên, giúp các nhà

nghiên cứu có thể quan sát rõ các cấu trúc

phức tạp chẳng hạn như vị trí của các thụ thể

neurotransmitter nằm trên bề mặt của các tế

bào “postsynaptic”.

Boyden hy vọng trong những năm tới có

thể tiến hành lập bản đồ tổ chức của những

protein tín hiệu và “giàn giáo” này ở khớp

thần kinh. Boyden tin tưởng cho biết, việc kết

hợp kính hiển vi với công cụ mới có tên là

temporal multiplexing có thể giúp nhóm

nghiên cứu đạt được điều này.

Hiện nay, chỉ mộ số lượng hạn chế các

đầu dò màu được dùng để tạo ảnh các phân tử

khác nhau trong một mẫu mô. Với temporal

multiplexing, các nhà nghiên cứu có thể gắn

nhãn một phân tử nào đó với một đầu dò

huỳnh quang, chụp ảnh, và sau đó phải làm

sạch đầu dò ngay lập tức. Việc này sẽ phải

thực hiện nhiều lần, mỗi lần sử dụng các màu

giống nhau để phân biệt các phân tử khác

nhau.

“Về nguyên tắc cơ bản, khi kết hợp kính

hiển vi mở rộng lặp lại với temporal

multiplexing, chúng tôi có thể tạo ảnh các

khối mô với độ phân giải cao ở phạm vi nano,

mầu sắc vô hạn, hình ảnh 3D. Mọi thứ càng

ngày càng trở nên tuyệt vời hơn khi những

7

công nghệ khác nhau này sớm kết nối với

nhau”, Boyden cho biết.

Theo vista.gov.vn, 20/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Xét nghiệm mới có thể xác định nhanh ca nhiễm lao

Bệnh lao (Tuberculosis - TB), trước đây

được biết đến là bệnh lao phổi, nó làm cho

người mắc bệnh bị ốm yếu và gây mòn đi.

Quá trình tiến triển của bệnh diễn ra lâu và

gây tử vong cao. Theo ước tính, bệnh này đã

cướp đi sinh mạng của nhiều người hơn so với

các tác nhân vi khuẩn gây bệnh khác.

Các nghiên cứu đã phát hiện ra các bằng

chứng về tác động của nó lên con người vào

khoảng 8.000 năm trước Công nguyên, và ước

tính rằng nó đã giết chết khoảng một tỷ người

trong hai thế kỷ qua.

Giờ đây, một nhóm nghiên cứu do các

nhà khoa học đến từ Arizona, Texas và

Washington DC hợp nhất lại lần đầu tiên đã

phát triển được một phương pháp xét nghiệm

máu nhanh để chẩn đoán và đánh giá mức độ

nghiêm trọng của các ca bệnh lao thực sự

(active TB cases).

Dưới sự dẫn dắt của Tony Hu, chuyên

gia nghiên cứu tại Viện Thiết kế sinh học -

Trường Đại học Arizona State, 8 nhóm nghiên

cứu bao gồm Viện Nghiên cứu Houston

Methodist và các nhà nghiên cứu tại Viện y tế

Quốc gia, đang tích cực khai thác lĩnh vực

mới của y học nano để nâng cao khả năng

kiểm soát TB trên toàn thế giới.

Ông Hu, một nhà khoa học thuộc Trung

tâm Virginia G. Piper - Viện nghiên cứu thiết

kế sinh học, cho biết: “Trong các cuộc thử

nghiệm lao hiện nay, xét nghiệm đờm, xét

nghiệm máu, xâm lấn phổi và sinh thiết

lymphô, hoặc chích tủy là phương pháp duy

nhất để chẩn đoán bệnh lao. Các kết quả có

thể là âm tính giả, và các xét nghiệm này cũng

bị hạn chế do phải chờ mất vài ngày mới cho

ra kết quả”.

Mặc dù đã dành ra 6.6 tỷ đô la để nỗ lực

phòng ngừa và chăm sóc lao quốc tế, nhưng

TB vẫn là một nguy cơ lớn đối với sức khoẻ

con người, đặc biệt đối với các nước đang

phát triển và người nhiễm bệnh HIV.

Các vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi mà vi

khuẩn lao có thể ẩn náu trong mô phổi của

người, thường là 10 năm, trước khi bùng phát

khiến bệnh lao phát triển mạnh và sau đó có

thể lây sang những người khác. Hiện tại, Tổ

chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính có đến

một phần ba dân số thế giới có thể có những

trường hợp nhiễm lao không hoạt động

(dormant TB infections) như vậy.

Năm 2016, theo báo cao mới nhất của

WHO, ước tính có 10 triệu người trên toàn thế

giới vẫn phát triển bệnh lao mỗi năm, gây tử

vong cho khoảng 2 triệu người. Các biện pháp

điều trị TB đã ngăn chặn được khoảng 50

triệu ca tử vong trong khoảng thời gian từ

năm 2000 đến 2015, nhưng TB vẫn là một

bệnh dịch toàn thế giới do hiện nay thiếu các

vắc xin TB đặc hiệu, sự gia tăng các chuỗi

kháng thuốc và hoạt động chẩn đoán TB.

Phương pháp mới và đơn giản dùng để

sàng lọc nhanh những trường hợp dễ bị mắc

lao đã được tổ chức WHO và các văn phòng y

tế công cộng khác công nhận như là một giải

pháp quan trong để điều trị căn bệnh này.

Phương pháp xét nghiệm lao dựa vào

các chỉ số trong máu được phát triển mới đây

của nhóm nghiên cứu không chỉ vượt trội hơn

so với tất cả các phương pháp xét ngiệm khác

hiện có trên thị trường mà còn chỉ mất vài giờ

để hoàn thành xét nghiệm. Điều này rất quan

trọng vì các yêu cầu trong kiểm soát lao hiệu

8

quả là đòi hỏi bệnh nhân phải tiến hành điều

trị càng sớm càng tốt để có thể giảm các nguy

cơ lây lan bệnh lao.

Phương pháp xét nghiệm này cũng rất

hứa hẹn đối với việc đánh giá nhanh liệu pháp

điều trị lao, một yếu tố quan trong trong việc

làm giảm sự phát triển và lây lan của các

chuỗi vi khuẩn lao kháng thuốc.

Xét nghiệm NanoDisk-MS mới được

phát triển của nhóm nghiên cứu có thể cải thiện

đáng kể việc quản lý và chẩn đoán bệnh lao vì

phương pháp xét nghiệm này lần đầu tiên có

thể đánh giá được mức độ nghiêm trọng của

các ca nhiễm lao đang hoạt động. Nó có thể

phát hiện chính xác nồng độ trong máu của hai

loại protein đó là CFP-10 và ESAT-6 trong

thời gian ngắn mà vi khuẩn lao chỉ giải phóng

trong các trường hợp nhiễm trùng.

“Chúng tôi rất vui về khả năng phương

pháp xét nghiệm có tốc độ xử lý và cho nhanh

kết quả này của chúng tôi. Các kết quả này

giúp theo dõi hiệu quả điều trị và cho phép các

bác sĩ có thể điều trị tốt hơn những ca nhiễm

lao trên toàn thế giới. Hơn nữa, công nghệ của

chúng tôi có thể được tích hợp sử dụng với các

dụng cụ lâm sàng tiêu chuẩn trong các bệnh

viện trên toàn thế giới”. Hu nói.

Các xét nghiệm lao hiện nay thường rất

khó ở những bệnh nhân lao dương tính với

HIV hoặc những ca nhiễu lao trong các mô

không phải là mô phổi. Những bệnh nhân này

có thể sẽ cần phải sinh thiết mô để chẩn đoán

bệnh.

Tuy nhiên, phương pháp xét nghiệm

NanoDisk-MS có thể phát hiện được các ca

bệnh lao khu trú ở phổi và không phải ở phổi

với độ nhạy tương ứng khoảng 92%, bao gồm

cả ở bệnh nhân nhiễm HIV, và bộc lộ rõ các

đặc trưng bệnh để phân biệt những bệnh nhân

với các ca bệnh liên quan. Trong đó lao tiềm

ẩn là 87%, các ca nhiễm vi khuẩn lao không

điển hình là 91% và những người khỏe mạnh

là 100%.

Phương pháp xét nghiệm này cũng có

thể điều chỉnh để xét nghiệm các căn bệnh

truyền nhiễm khác. Hiện Hu đang phát triển

các xét nghiệm lao hiện nay để đượcc phê

duyệt ứng dụng lâm sàng trong cuộc chiến

chống lại bệnh lao.

Công trình nghiên cứu đã được công bố

trên tạp chí Proceedings of the National

Academy of Sciences.

Theo vista.gov.vn, 05/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Vai trò quan trọng của ánh nắng Mặt trời đối với độ nhạy cảm của da nhân tạo

Nghiên cứu độ nhạy cảm của da nhân

tạo để có thể hỗ trợ cho người tàn tật cảm

nhận được sức ép hoặc sự tiếp xúc với chân -

tay giả của họ là một chủ đề nóng của các nhà

nghiên cứu. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là

cần một kỹ thuật mới để cung cấp nguồn năng

lượng cho da để nó có thể gửi tín hiệu. Hiện

tại, nhóm nghiên cứu đã có một giải pháp

tiềm năng: Họ đã tạo ra một loại da nhân tạo

có thể được hỗ trợ bởi ánh sáng Mặt trời.

Tác giả nghiên cứu Ravinder Dahiya -

Giáo sư về kỹ thuật điện tử và nano ở Đại học

Glasgow ở Scotland cho biết, sự phát triển

đầu tiên và mới này về loại da nhân tạo nhạy

cảm với tế bào năng lượng mặt trời được tích

hợp vào da.

Ravinder Dahiya cùng nhóm nghiên cứu

của mình đã tạo ra lớp da trong suốt với 4 lớp

mỏng: pin mặt trời ở phần dưới cùng, tiếp

theo là polyvinyl clorua (PVC, nhựa tổng hợp

mỏng), một lớp graphene và một loại silicone

ở trên. Loại da này không chỉ nhạy cảm mà

còn siêu mỏng và linh hoạt. Ngoài việc giúp

9

đỡ những người mang chân - tay giả, loại da

nhân tạo nhờ năng lượng mặt trời có thể giúp

các robot cảm nhận được. Graphene, tạo

thành lớp thứ ba của da nhân tạo là một loại

vật liệu graphite khoáng chất rất linh hoạt.

Vật liệu này chỉ là một nguyên tử dày, mạnh

hơn thép và dẫn điện. Vì rõ ràng 98% ánh

sáng mặt trời có thể chạm bề mặt graphene và

xuyên qua trực tiếp, làm cho nó trở thành vật

liệu lý tưởng để sử dụng với pin mặt trời.

Nhóm nghiên cứu đã xem xét các nguồn

năng lượng khác cho da, bao gồm chế biến

năng lượng và thu hoạch năng lượng bằng

dao động (tên gọi lạ cho điện tĩnh). Nhưng

năng lượng mặt trời có ý nghĩa nhất, một

phần do nó tạo ra nhiều điện nhất.

Ravinder Dahiya cho biết: Chúng tôi đã

thử nghiệm trên da bằng cách đặt nó trên một

bàn tay có điều khiển bằng điện tử được gọi

là tay giả i-limb. Ánh sáng đã được chiếu trên

da ngay lập tức mang lại cảm giác xúc giác

trên đó. Da người là một hệ thống cực kỳ

phức tạp có khả năng phát hiện sức ép, nhiệt

độ và kết cấu thông qua một loạt các cảm

biến thần kinh mang tín hiệu từ da đến não.

Da nhân tạo mới cho phép bàn tay giả thực

hiện những “nhiệm vụ đầy thách thức, giống

như các vật liệu mềm dễ bị va chạm”. Ngoài

ra, da có thể phát hiện áp suất thấp nhất 0,01

lbs trên mỗi inch vuông (0.11 kilopascals).

Da chỉ cần 20 nanowatts điện trên 0,1 inch

vuông (1 cm vuông). Đặt nó vào trong quan

điểm: một bóng đèn phát sáng phát ra ánh

sáng thường xuyên (LED) sẽ mất khoảng 5

watt để chiếu sáng; 1 nanowatt là một phần tỷ

của một watt.

Công nghệ này cũng có thể giúp robot

quyết định an toàn hơn khi chúng tương tác

với người. Ví dụ, một con robot làm việc trên

tuyến thi công sẽ không có khả năng gây

thương tích cho con người nếu nó có thể cảm

thấy một người bất ngờ bước vào khu vực di

chuyển của chúng và dừng lại trước khi có

thể xảy ra thương tích. Mục tiêu tiếp theo của

nhóm là phát triển một công nghệ tương tự,

có thể tự động cung cấp bàn tay giả, bao gồm

cả động cơ của nó. Điều này có thể cho phép

tạo ra một chân - tay giả tự động năng lượng

hoàn toàn.

Theo vista.gov.vn, 10/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Phương pháp đột phá bắt tế bào ung thư tự phá hủy

Các nhà nghiên cứu khám phá một cơ

chế mới khiến những tế bào ung thư tự hủy,

bao gồm cả những khối u ác tính nhất như

ung thư tụy, tạo ra bước đột phá trong điều trị

căn bệnh thế kỷ.

Sau khi quá trình tự phá hủy được kích

hoạt bằng cách biến đổi những protein đặc

biệt trong mô ung thư, sự phân chia liên tục bị

ngừng lại khiến tế bào ung thư chết hàng loạt

thay vì lan rộng khắp cơ thể, Science Alert

hôm 8/4 đưa tin. Không giống những phương

pháp điều trị ung thư hiện nay, kỹ thuật mới

không ảnh hưởng đến tế bào khỏe mạnh.

Nhóm chuyên gia ở Đại học Tel Aviv,

Israel, thử nghiệm phương pháp thành công

trên chuột và bước tiếp theo là xác định cơ

chế có phát huy tác dụng ở người hay không.

Kết quả nghiên cứu được công bố hôm 5/4

trên tạp chí Oncotarget.

Các nhà khoa học Israel tìm ra phương pháp mới bắt tế bào ung thư tự hủy. Ảnh: Jovan Vitanovski.

"Việc phát hiện cơ chế tiêu diệt tế bào ung

thư mà không làm hại tế bào khỏe mạnh, từ đó

tạo ra bước đột phá trong điều trị ung thư, thực

10

sự khiến chúng tôi phấn khích", Malka Cohen-

Armon, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.

Các nhà khoa học tập trung vào các protein

tác động đến cấu trúc và sự ổn định của một

bộ phận trong tế bào có tên "trục chính"

(spindle). Nhiệm vụ của các spindle là sắp xếp

vật liệu di truyền trong quá trình phân bào.

Họ nhận thấy một số hợp chất trong tế bào

ung thư tác động đến trục chính, ngăn tế bào

ung thư không thể phân chia và lây lan. "Với

cơ chế này, tế bào phân chia càng nhanh lại

càng bị hủy diệt nhanh. Sớm hay muộn, toàn

bộ tế bào ung thư sẽ bị tiêu diệt", Cohen-

Armon nói.

Thử nghiệm của nhóm Cohen-Armon trên

chuột cho kết quả tích cực với hầu hết các

loại ung thư hiện nay, thậm chí cả những loại

ác tính nhất. Họ dự kiến nghiên cứu sâu hơn

về cách cơ chế biến đổi protein giúp chống lại

ung thư vú và ung thư tụy, đồng thời tìm tòi

phát triển một loại thuốc chống ung thư hiệu

quả.

Theo vnexpress.net, 10/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Phát triển thành công hệ thống vận chuyển thuốc trúng đích đến các tế bào thần kinh cụ thể

Thuốc là công cụ được lựa chọn để

nghiên cứu mối liên hệ giữa các nơ-ron, và

luôn là phương pháp điều trị chính cho bệnh

thần kinh. Tuy nhiên, một nhược điểm lớn đó

là các loại thuốc này thường ảnh hưởng đến

tất cả các loại tế bào thần kinh (nơ ron), làm

phức tạp quá trình nghiên cứu các thụ thể tế

bào trong khớp thần kinh - khe giữa các nơ

ron - hoạt động trong một bộ não còn nguyên

vẹn. Việc thao tác chúng có thể mang lại

nhiều lợi ích lâm sàng nhưng cũng có nhiều

tác dụng phụ không mong muốn xảy ra.

Các kỹ sư y sinh học Trường Đại học

Duke và Viện Y học Howard Hughes mới đây

đã phát triển thành công phương pháp phân

phối thuốc cho từng loại tế bào thần kinh cụ

thể trong não. Phương pháp này có tên là

DART (Drugs Acutely Restricted by

Tethering) có thể đảm bảo khắc phục những

giới hạn này và rất hứa hẹn trong nghiên cứu

và điều trị nhắm đích các bệnh thần kinh. Đây

cũng là lần đầu tiên DART mang đến cho các

nhà khoa học cơ hội nghiên cứu những vấn để

xảy ra khi thuốc chỉ nhắm mục tiêu đến một tế

bào nào đó.

Trong nghiên cứu khởi đầu này, DART

bộc lộ rõ phương thức di chuyển khác nhau

trong các mô hình chuột mắc bệnh Parkinson

đã được kiểm soát bởi các thụ thể AMPA

(AMPA) - một protein thần kinh giúp các nơ-

ron nhận được tín hiệu nhanh từ các nơ ron

khác trong não. Các kết quả cho thấy lý do vì

sao một thử nghiệm lâm sàng gần đây của một

loại thuốc ngăn chặn AMPAR bị thất bại và

cung cấp một cách tiếp cận mới đối với việc

sử dụng các loại thuốc trong điều trị.

Michael Tadross, trợ lý giáo sư về kỹ

thuật y sinh, cho biết: “Nghiên cứu này đánh

dấu một cột mốc quan trọng trong đặc điểm

dược lý thần kinh học. Những hiểu biết sâu

sắc thu được trong quá trình nghiên cứu trên

đàn chuột mắc bệnh Parkinson là bất ngờ và

không thể có được đối với bất kỳ phương pháp

nào”.

DART hoạt động bằng cách lập trình về

mặt di truyền một loại tế bào cụ thể nào đó để

biểu hiện GPS beacon. “Beacon” là một

enzyme có được từ các vi khuẩn mất hoạt tính.

Những vi khuẩn này hoàn toàn bất hoạt và chỉ

hiện diện trên bề mặt tế bào cho đến khi nhóm

11

nghiên cứu cung cấp các loại thuốc chứa thiết

bị nhắm đích cụ thể đến chúng.

Nhóm nghiên cứu đã phân phối thuốc

với liều lượng thấp đến mức chúng không gây

ảnh hưởng đến các tế bào khác. Tuy nhiên do

hệ thống nhắm đích rất hiệu quả nên thuốc bị

bắt giữ lại trên bề mặt tế bào nhăm đích, tích

tụ trong vài phút tới khi mật độ lớn hơn 100

đến 1.000 lần so với những khu vực khác.

Trong thí nghiệm sử dụng mô hình chuột

mắc bệnh Parkinson, Tadross và các đồng

nghiệp đã gắn beacon tín hiệu nhắm đích với

hai loại nơ ron được tìm thấy trong các hạch cơ

- vùng não chịu trách nhiệm kiểm soát động cơ.

Một loại, được gọi là tế bào thần kinh D1, được

cho là phát lệnh “thực hiện hành động”. Loại

kia, được gọi là tế bào thần kinh D2, được cho

là làm ngược lại mệnh lệnh của tế bào thần

kinh D1, đưa ra các mệnh lệnh để ngăn chặn

thực hiện hành động.

Khi sử dụng DART, Tadross đã dẫn

thuốc ức chế AMPAR chỉ đến tế bào thần kinh

D1, hoặc chỉ đến tế bào thần kinh D2, hoặc

chỉ đến cả hai tế bào này. Khi dẫn thuốc đến

cả hai loại tế bào cùng một lúc, các loại thuốc

này chỉ cải thiện được một trong số vài yếu tố

rối loạn vận động - phản chiếu các kết quả

không rõ ràng của các thử nghiệm lâm sàng

gần đây của con người. Nhóm nghiên cứu sau

đó phát hiện ra rằng việc cấp thuốc đến duy

nhất các tế bào thần kinh D1 hoàn toàn không

đạt được lợi ích gì. Tuy nhiên, đáng ngạc

nhiên là, khi nhắm mục tiêu cũng loại thuốc

này tới các tế bào thần kinh D2, các chuyển

động của chuột đã trở nên thường xuyên hơn,

nhanh hơn, thay đổi nhiều hơn và tuyến tính

hơn - nói cách khác, chẳng khác gì bình

thường.

“Chúng tôi phát hiện thấy việc nhắm

mục tiêu một thụ thể riêng biệt dựa trên các

loại tế bào thần kinh riêng biệt có thể dẫn đến

những cải tiến mạnh mẽ đáng ngạc nhiên”,

Tadross cho biết.

Ngoài ra, Tadross hiện đang nghiên cứu

xem làm thế nào khám phá mới này có thể

chuyển thành một liệu pháp điều trị mới khi

cung cấp các loại thuốc cho các nơ-ron thông

qua một kỹ thuật virut mới nổi. Ông cũng

đang bắt tay vào nghiên cứu để phát triển một

phiên bản DART không cần bổ sung beacon

nhắm mục tiêu để hoạt động. Cả hai nỗ lực

này sẽ đòi hỏi nhiều năm nghiên cứu trước khi

nhìn thấy sự thành công.

Nghiên cứu này do Viện Y học Howard

Hughes tài trợ và các kết quả nghiên cứu đã

được công bố trên tạp chí Science mới đây.

Theo vista.gov.vn, 14/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Thuốc chứa Canabinoid có thể điều trị hiệu quả bệnh ngoài da

Trong một nghiên cứu được công bố

trên tạp chí của Viện Da liễu Hoa Kỳ, các nhà

khoa học thuộc trường Đại học Colorado

Anschutz Medical Campus, Hoa Kỳ đã phát

hiện ra rằng những loại dược phẩm chứa

nhóm hợp chất cannabinoid có đặc tính chống

viêm nhiêm nên có thể được sử dụng hiệu quả

trong điều trị các bệnh ngoài da như: bệnh

chàm, bệnh chàm, bệnh vẩy nến và bệnh viêm

da tiếp xúc dị ứng.

Hiện tại, 28 tiểu bang tại Hoa Kỳ đã hợp

pháp hóa việc sử dụng cần sa cho các mục

tiêu y tế với gần 1 trong 10 người dùng cần sa

người lớn ở Hoa Kỳ sử dụng thuốc vì lý do y

tế. Nhóm nghiên cứu cho biết sau khi tiến

hành kiểm tra tác dụng của loại dược phẩm có

chứa thành phần cannabinoid, họ phát triển

ngoài mục đích để sử dụng trong điều trị bệnh

12

nhân với các triệu chứng buồn nôn, đau mãn

tính và chán ăn, ngày càng có nhiều bác sĩ da

liễu nhìn vào khả năng chống lại một loạt các

bệnh ngoài da.

"Có lẽ nhóm hợp chất dược lý

cannabinoid được biết đến chủ yếu với vai trò

hiệu quả trong điều trị các nhóm bệnh gây ra

ngứa", TS. Robert Dellavalle, chuyên gia về

da liễu, trường Đại học Colorado cho biết.

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu,

các bệnh nhân được yêu cầu bôi lên vùng da

bị tổn thương một loại kem có chứa thành

phần cannabinoid trong vòng 3 tuần với liều

sử dụng là 2 lần trong ngày. Sau thời gian

điều trị, tình trạng ngứa của 8 trong số 21

bệnh nhân được xác định là được cải thiện

hoàn toàn. Ông cho biết thuốc có tác dụng

làm giảm tình trạng khô mốc, ráp da vốn dễ

bị nứt nẻ và nghiêm trọng hơn là gây ngứa.

Dellavalle cho rằng ưu điểm nổi trội của

phương pháp điều trị này là nhờ đặc tính

chống viêm của cannabinoid. Trong các

nghiên cứu của mình, ông cũng các cộng sự

đã tìm thấy THC (tetrahydrocannabinol) -

một trong hai hoạt chất chính trong cần sa

giúp giảm sưng và hạn chế tình trạng viêm

nhiễm ở cơ thể chuột.

Đồng thời, chuột có khối u ác tính khi

được tiêm THC đã có khả năng ức chế mạnh

mẽ sự phát triển của khối u.

Dellavalle cho rằng: "Các loại thuốc có

chứa thành phần cannabinoid ít hay thậm chí

là không gây ảnh hưởng đến thần kinh cũng

có thể được sử dụng trong điều trị bệnh ngoài

da”.

Tuy nhiên, Dellavalle cũng khuyến cáo

rằng phần lớn các nghiên cứu này đều dựa

trên các mô hình trong phạm vi phòng thí

nghiệm và các thử nghiệm lâm sàng trên quy

mô lớn vẫn chưa được thực hiện. Thực tế này

có thể sẽ thay đổi khi ngày càng có nhiều tiểu

bang hợp pháp hóa việc sử dụng cần sa.

Dellavalle cho biết những bệnh nhân

trước đó đã sử dụng các loại thuốc khác để

điều trị bệnh ngứa và bệnh về da nhưng

không thành công hiện đang lựa chọn sử dụng

thuốc chứa nhóm hợp chất cannabinoid, đặc

biệt là vì nó không gây ảnh hưởng đến thần

kinh. Tuy nhiên, ông không khuyến cáo sử

dụng loại thuốc này trong điều trị ung thư.

Ông nhấn mạnh: "Những bệnh này gây

ra nhiều bất lợi cho người bệnh và ảnh hưởng

trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của họ.

Các loại dược phẩm điều trị hiện nay thường

được đặt mua qua mạng internet, do đó, cần

nâng cao nhận thức của các bác sĩ da liễu

cũng như bệnh nhân về tiềm năng sử dụng

của loại thuốc này".

Theo vista.gov.vn, 20/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Phương pháp mới điều trị chứng suy giảm nhận thức do tuổi già

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện

Max Planck đã phát triển được một hợp chất

khung kim loại-hữu có thể được sử dụng để

tách đơteri và triti từ hydro bình thường hiệu

quả hơn các phương pháp trước đây.

Ngày 19/4, các nhà khoa học Mỹ công

bố một thí nghiệm mới cho thấy có thể sử

dụng các biện pháp can thiệp khoa học để giúp

não bộ hoạt động khỏe mạnh hơn khi bước

vào tuổi "xế chiều."

Theo đó, các nhà nghiên cứu đến từ Địa

học Standford (California, Mỹ) đã thực hiện thí

nghiệm bằng cách tiêm một loại protein có tên

TIMP2, được lấy từ huyết tương ở dây rốn của

các em bé sơ sinh, lên các cá thể chuột già.

Kết quả cho thấy việc này giúp tăng

cường khả năng hoạt động của các hồi hải mã

(một phần của não trước, là cấu trúc nằm bên

trong thùy thái dương chịu trách nhiệm điều

khiển trí nhớ và các khả năng nhận biết không

gian) của cá thể chuột, tăng cường khả năng

học hỏi, ghi nhớ và tiếp nhận thông tin mới.

13

Đáng chú ý, những cá thể chuột già này

có thể tìm cách thoát khỏi một mê cung được

dựng trong phòng thí nghiệm nhanh hơn.

TIMP2 là loại protein có rất nhiều trong

huyết tương dây rốn trẻ sơ sinh, và hàm lượng

protein này giảm dần khi tuổi đời càng cao.

Trước đây, các nhà khoa học từng phát hiện ra

vai trò của TIMP2 trong việc phát triển hồi hải

mã.

Tác giả của nghiên cứu được đăng tải

trên tạp chí Nature này nhận định phát hiện

mới chỉ ra protein TIMP2 hoặc các tế bào thần

kinh có chứa protein này sẽ phục vụ đắc lực

cho các nghiên cứu điều chế thuốc chống suy

giảm nhận thức ở người già.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là thí nghiệm

bước đầu đối với chuột cần có những kiểm

chứng chuyên sâu hơn về tác dụng của

phương pháp này đối với con người trước khi

đưa ra kết luận. Và tác dụng ở chuột cũng chỉ

mới dừng lại ở việc khắc phục tình trạng suy

giảm nhận thức do tuổi tác chứ chưa có nghiên

cứu cụ thể về tình trạng suy giảm nhận thức

do bệnh tật.

Mặc dù vậy, đây cũng là một trong các

bước đi đầu tiên định hướng cho các nghiên

cứu chuyên sâu hơn dành cho người.

Theo vietnamplus.vn, 20/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Bào chế thành công thực phẩm chức năng ngăn ngừa bệnh răng miệng

Nhân loại có thể sớm tạo ra nhiều dữ

liệu hơn so với ổ cứng hoặc băng từ, một vấn

đề đưa các nhà khoa học đến việc chuyển đổi

sang giải pháp lâu đời của tự nhiên cho việc

lưu trữ thông tin - ADN.

Các nhà khoa học của trường Đại học tự

trị Coahuila (Uadec), Mexico đã bào chế

thành công một loại thực phẩm chức năng

dạng kẹo gôm, được chiết xuất từ thảo dược

nhằm kiểm soát và điều trị bệnh nha chu và

sâu răng.

Nhà khoa học Alejandra Elizabeth

Vargas Segura, một trong những người đứng

đầu dự án nghiên cứu, cho biết đề tài khoa

học trên đã được tiến hành trong hơn hai năm

tập trung chủ yếu vào việc chiết xuất từ các

loại cây thuốc nam ra những hoạt chất có hoạt

tính sinh học giúp phòng ngừa các vi khuẩn

gây ra các loại bệnh răng miệng và bào chế

thành một loại kẹo gôm không đường.

Trong quá trình thử nghiệm, các nhà

nghiên cứu đã tiến hành chiết xuất các hoạt

chất từ 15 loại cây thuốc nam được sử dụng

nhiều trong dân gian như cây lu lu (tên khoa

học là Solanum nigrum), cây Sồi (Quercus

rugosa), cây máu rồng (Croton urucurana),

cây hoa trinh nữ (Mimosa tenuiflora) và cây

hoa hồng Pháp (Rosa gallica).

Trong số đó hoa hồng Rosa gallica chứa

rất nhiều thành phần hóa học, đặc biệt là khi

thực hiện kháng sinh đồ với loại hoa này đã

sàng lọc ra được chất cefalexina với mật độ là

32ppm (đơn vị một phần triệu), rất hữu hiệu

để ngăn ngừa bệnh răng miệng.

Bà Vargas Segura khẳng định các nhà

nghiên cứu trường Uadec đã cho thử nghiệm

kẹo gôm không đường với bệnh nhân và kết

quả cho thấy sản phẩm này có công dụng tốt

đối với việc điều trị các bệnh sâu răng và nha

chu, trung bình giảm từ 30-50% các vi khuẩn

gây ra các bệnh này.

Theo kế hoạch, các nhà khoa học trường

Uadec sẽ tập trung làm một số phân tích về

sinh học phân tử để xác định thêm một số loại

vi khuẩn khác mà có thể dùng các chất chiết

xuất từ các cây thuốc trên để ngăn ngừa và

khống chế chúng.

Theo vista.gov.vn, 20/04/2017

Trở về đầu trang

**************

14

Tử cung nhân tạo tăng cơ hội sống sót cho trẻ sinh non

Các nhà khoa học Mỹ phát triển một tử

cung nhân tạo có thể giúp những em bé sinh

non sống sót bên ngoài tử cung của người mẹ.

Thiết bị tử cung nhân tạo đã được các

nhà khoa học Mỹ kiểm nghiệm thành công ở

cừu non và có thể sắp được thử nghiệm ở trẻ

sơ sinh mắc bệnh nặng trong vòng 3 - 5 năm

tới, Seeker hôm qua đưa tin.

Các nhà khoa học nhấn mạnh thiết bị

không được thiết kế để kết thúc thai kỳ sớm,

mà đơn giản để cung cấp một môi trường an

toàn cho trẻ sinh non. Không giống những

lồng ấp truyền thống, hệ thống túi sinh học

này mô phỏng điều kiện trong tử cung.

Em bé được bao quanh bởi chất lỏng

tương tự như nước ối thông thường bao quanh

thai nhi, cho phép em bé thở qua dây rốn như

bên trong bụng mẹ. Trong lồng ấp truyền

thống, thai nhi thở qua lá phổi nhỏ xíu chưa

phát triển đầy đủ. Nhưng nhiễm trùng phổi là

vấn đề khá phổ biến, nguyên nhân gây tử vong

ở trẻ sinh thiếu tháng. Hệ thống mới giúp ngăn

chặn nguy cơ này. Môi trường lỏng cũng dễ

duy trì điều kiện vô trùng hơn so với lồng ấp.

Chỉ có một trong ba trẻ sinh non ở tuần

23 ở Anh có cơ hội sống sót và những trẻ này

có 90% khả năng mắc bệnh phổi kinh niên

hoặc những hậu quả khác khi chào đời trong

khi cơ quan nội tạng chưa phát triển đầy đủ.

Hệ thống mới hướng đến gia tăng khả năng

phát triển khỏe mạnh cho bé sinh thiếu tháng.

"Hệ thống của chúng tôi có thể ngăn

chặn sự hoành hành của bệnh tật mà trẻ sinh

non phải chịu đựng bằng cách đem đến công

nghệ y học chưa từng có", tiến sĩ Alan Flake,

giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thai nhi ở

Bệnh viện Nhi Philadelphia, Mỹ, chia sẻ.

"Trẻ sinh non có nhu cầu khẩn cấp về

một cầu nối giữa tử cung của người mẹ và thế

giới bên ngoài. Nếu chúng ta phát triển được

một hệ thống giống tử cung hỗ trợ sự phát

triển và hoàn thiện của các cơ quan nội tạng

trong vài tuần, chúng ta có thể cải thiện đáng

kể tương lai cho trẻ sinh non. Hệ thống này

ưu việt hơn nhiều so với trang bị hiện nay ở

các bệnh viện. Nó tạo nên một tiêu chuẩn

chăm sóc mới cho những bé sinh thiếu

tháng", tiến sĩ Flake cho biết.

Sáu con cừu sinh non được sử dụng để

kiểm nghiệm phiên bản mới nhất của thiết bị,

được phát triển từ bể kính thành túi sinh học

trong thời gian ba năm. Các con vật hít thở và

nuốt như bình thường, mở mắt, mọc lông và

phát triển hệ thần kinh cũng như cơ quan nội

tạng hoạt động hoàn thiện, theo kết quả

nghiên cứu công bố trên tạp chí Nature

Communication. Những con cừu ở trong tử

cung nhân tạo trong một tháng.

Phần lớn cừu non bị giết để lấy mẫu

phân tích não, phổi và các cơ quan khác trong

khi một số ít được cho bú bình để sống tiếp.

"Chúng có vẻ phát triển bình thường về mọi

mặt", tiến sĩ Flake kết luận.

Theo tiến sĩ Flake, không công nghệ nào

có thể thay thế tử cung người mẹ trong giai

đoạn đầu của thai kỳ. "Nghiên cứu này không

nhằm thay thế tử cung ở nửa đầu thai kỳ. Nó

nhằm phát triển những cách mới để điều trị

cho trẻ sinh thiếu tháng. Các nhà nghiên cứu

hỗ trợ thai nhi đẻ non phát triển bên trong túi

chất lỏng, nơi thai nhi bơm máu qua nhau thai

nhân tạo", giáo sư Colin Duncan ở Đại học

Edinburgh, nói.

Có sự khác biệt đáng kể giữa cừu mới

đẻ và trẻ sơ sinh. Ví dụ, cừu phát triển nhanh

hơn, chỉ mất 5 tháng để hoàn thiện cơ thể, so

với 8 tháng ở người. Ngoài ra, cừu lớn hơn

gấp khoảng ba lần so với trẻ sơ sinh.

Theo vnexpress.net, 26/04/2017

Trở về đầu trang

**************

15

Mô hình gelatine mới có thể thay thế cho da người

Các nhà khoa học thuộc Phòng thí

nghiệm Liên bang về Khoa học và Công nghệ

Vật liệu Thụy Sĩ (Empa) đang phát triển một

mô hình gelatine mô phỏng các đặc tính của

da người với việc bắt chước cách da hấp thụ

nước. Bằng cách kiểm soát hàm lượng ẩm

trong gelatine, nhóm nghiên cứu dự định sử

dụng nó như một sự thay thế trong các thử

nghiệm lâm sàng của con người để kiểm tra

cách da tương tác với vải, ví dụ như tấm băng

phẫu thuật.

Da là thứ rất hữu ích. Nó không chỉ bao

bọc và giữ những phần bên trong cơ thể, nó là

một vật liệu năng động thay đổi đặc tính của

nó dựa trên môi trường ngay lập tức. Một yếu

tố quan trọng là độ ẩm mà da hấp thụ để tạo

ra những nếp nhăn cho thấy bạn đã ngâm

nước quá lâu. Độ ẩm cũng làm cho da mềm

và mịn hơn, dẫn đến ma sát tốt hơn. Độ ẩm

thích hợp giúp tay nắm giữ dụng cụ và cũng

là lý do mà khi đủ ấm, chân trần bám trên

boong tàu hơn so với đi giày.

Tuy nhiên, độ ẩm trong da quá cao có

thể gây ra quá nhiều ma sát, gây ra rộp, phát

ban và thậm chí là vết loét như khi bạn đi bộ

quá lâu trong giầy và tất ướt.

Hiểu được những thay đổi của da với sự

thay đổi độ ẩm và cách thức tương tác với vải

là rất quan trọng đối với mọi thứ từ việc thiết

kế những đôi giày quân đội phù hợp cho đến

chế tạo ra băng vết thương không gây tổn hại

cho da xung quanh.

Theo Empa, phương pháp thử nghiệm

tương tác da/vải là yêu cầu các tình nguyện

viên chà xát vải trên da của họ và đánh giá

kết quả, nhưng các nhà nghiên cứu nói rằng

việc này mất nhiều thời gian, tốn kém và gây

nguy hiểm cho người bệnh. Vấn đề phức tạp

hơn vì cách da, vải, và nước tương tác rất

phức tạp, do đó, đổ mồ hôi trong khi đi bộ

khác với chạy trong mưa bão.

Để tạo ra một chất liệu dễ kiểm soát hơn

và giảm bớt đối tượng người thử nghiệm, nhà

nghiên cứu Agnieszka Dabrowska của Empa

đã đưa ra mô hình mô phỏng chính xác da

người bằng gelatine với chất nền vải. Giống

như da bình thường, phiên bản gelatine hấp

thụ độ ẩm và làm thay đổi tính chất của nó

theo cách tương tự, vì vậy nó có tương tác

thực tế với vải và các chất liệu khác.

Mô hình được tạo ra bằng gelatine thông

thường, hòa tan trong nước, nhúng vào sợi

bông và được xử lý bằng các hóa chất làm

cho các polyme protein tạo thành các liên kết

chéo giữ các phân tử lại với nhau và ngăn

không cho chúng hòa tan. Kết quả là một chất

hấp thụ nước và phồng lên, mịn và mềm

giống da.

Dabrowska ban đầu định sử dụng

keratin làm nền cho mô hình da mới, nhưng

gelatine rẻ hơn nhiều, nó chỉ tốn một vài

franc Thụy Sĩ. Empa cho biết mô hình mới

không phải để thay thế cho tất cả các thử

nghiệm trên người, nhưng nó làm giảm số

lượng đối tượng thử nghiệm và giúp các nhà

khoa học loại bỏ được nhiều loại vải từ sớm.

Dabrowska cho biết mô hình hiện nay

phụ thuộc vào nguồn nước bên ngoài, nhưng

nhóm đang nghiên cứu để loại bỏ vấn đề này

cũng như tạo ra các lỗ chân lông cho phép da

nhân tạo đổ mồ hôi như thật.

Theo vista.gov.vn, 28/04/2017

Trở về đầu trang

**************

16

Màng sinh học nhân tạo giúp làm tăng hiệu suất của pin nhiên liệu vi sinh

Thông thường, pin nhiên liệu vi sinh vật

hoạt động dựa trên điện năng sản sinh ra nhờ

quá trình trao đổi chất của vi khuẩn. Tuy

nhiên, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc

trường Đại học Bayreuth, CHLB Đức mới đây

cho biết họ vừa phát triển thành công một loại

màng sinh học có khả năng làm tăng đáng kể

hiệu suất của pin nhiên liệu. Công nghệ mới

được đánh giá là hoạt động hiệu quả, ổn định

cũng như dễ sử dụng hơn so với màng sinh

học tự nhiên. Bài báo mô tả về những lợi ích

mà công nghệ mới đem lại được đăng tải trên

tạp chí Macromolecular Bioscience.

Pin nhiên liệu vi sinh sử dụng vi khuẩn

có khả năng phân hủy được các hợp chất hữu

cơ, trong đó có axit lactic. Trong pin nhiên

liệu, điện tử liên tục được sinh ra và giải

phóng nhờ quá trình trao đổi chất của vi

khuẩn. Các điện tử được giải phóng di chuyển

từ cực dương sang cực âm ở phía đối diện của

pin nhiên liệu, tạo ra dòng điện. Trong quá

trình tạo ra dòng điện theo cách này, các vi

khuẩn xâm chiếm, sống bám và gắn kết với

nhau trên bề mặt kim loại của cực dương. Tại

đây, vi khuẩn sinh sôi và phát triển rất mạnh

mẽ, từ đó, hình thành một lớp màng sinh học

tự nhiên và dẫn điện tới cực dương. Màng

sinh học nhân tạo của nhóm nghiên cứu

Bayreuth hoạt động hiệu quả tương tự màng

sinh học tự nhiên, tuy nhiên, nó có khả năng

tối ưu hóa hiệu suất của pin nhiên liệu theo

nhiều cách khác nhau.

Vi khuẩn hoạt động trong mạng lưới

tổng hợp: ổn định hơn so với màng sinh học

tự nhiên.

Nói một cách chính xác, nhóm nghiên

cứu dẫn đầu bởi GS. TS. Ruth Freitag -

chuyên ngành Công nghệ sinh học Chế biến

và GS. TS. Andreas Greiner chuyên ngành

Hóa học Phân tử đã sản xuất loại vật liệu

hydrogel composite sinh học. Đó là một cấu

trúc mạng lưới gồm các sợi polymer nhỏ xíu

có chứa một chủng vi khuẩn duy nhất. Quá

trình trao đổi chất của loài vi khuẩn này tạo ra

điện năng liên tục mà không hề bị gián đoạn.

Tuy nhiên, hiệu suất của pin được tăng lên

đáng kể: "Màng sinh học của chúng tôi được

hình thành nên từ loài vi khuẩn Shewanella

oneidensis. Pin nhiên liệu sử dụng màng sinh

học chứa loài vi khuẩn này đạt hiệu suất gấp

đôi so với pin nhiên liệu sử dụng màng sinh

học tự nhiên", TS. Patrick - thành viên nhóm

nghiên cứu Bayreuth giải thích.

Một trong những ưu điểm nổi trội của

phương pháp nâng cao hiệu suất pin nhiên

liệu chính là nguồn năng lượng ổn định và có

thể tính toán được, do nồng độ vi khuẩn trong

loại màng sinh học nhân tạo đặc biệt này

hoàn toàn có thể được xác định ngay từ ban

đầu. Trong khi đó, hoạt động của màng sinh

học tự nhiên không ổn định nên rất khó kiểm

soát. Như vậy, có thể nhận thấy công nghệ

màng sinh học mới của trường Đại học

Bayreuth làm tăng đáng kể hiệu suất của pin

nhiên liệu vi sinh, do đó, dễ sử dụng hơn.

Ngày nay, kỹ thuật kéo sợi lông cừu

được sử dụng tương đối rộng rãi. Nhà nghiên

cứu Steffen Reich cho biết vật liệu composite

sinh học được sản xuất bằng phương pháp kết

hợp, kéo các sợi polyme lại với nhau để tạo

thành một sợi lông cừu.

Theo vista.gov.vn, 18/04/2017

Trở về đầu trang

**************

17

Vỏ cam chanh có thể thay thế cho than hoạt tính

Ngoài việc ủ phân vỏ cam và bưởi, có thể

có một cách mới để chúng ta không phải vứt

bỏ chúng. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một

phương pháp sử dụng vỏ các loại cam chanh

để loại bỏ các kim loại nặng từ nước thải.

Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà

khoa học thuộc Đại học Granada của Tây Ban

Nha, cùng với các cộng sự tại Trung tâm

Nghiên cứu Điện hóa và Phát triển Công nghệ

Mexico và Trung tâm Phát triển Kỹ thuật và

Công nghiệp.

Đầu tiên, vỏ được sấy khô bằng cách sử

dụng máy sấy chân không, sau đó chúng được

xử lý hóa chất làm cho độ xốp và diện tích bề

mặt của chúng tăng lên. Cuối cùng chúng

được tán nhỏ và tạo hạt.

Trong các thử nghiệm trong phòng thí

nghiệm, các hạt từ vỏ cam chanh đã được xử

lý được cho vào trong các cột và bơm nước

qua, chúng hấp thụ thành công các kim loại

nặng như đồng từ nước bị ô nhiễm.

Nhóm nghiên cứu tại Đại học Granada

cho biết: "Kết quả cho thấy tiềm năng lớn

trong việc sử dụng các vật liệu như trên làm

các chất hấp phụ có khả năng cạnh tranh với

than hoạt tính thương mại để hấp thu và thu

hồi các kim loại có trong nước thải. Trong

tương lai chúng ta có thể thực hiện được các

quy trình bền vững trong đó các sản phẩm có

giá trị thương mại lớn có thể lấy được từ dư

lượng thực phẩm".

Một bài báo về nghiên cứu này đã được

công bố trên Tạp chí Cây trồng và các sản

phẩm công nghiệp. Các nhà khoa học thuộc

Đại học Flinders ở Úc cũng đã loại bỏ các

kim loại nặng khỏi nước bằng cách sử dụng

một loại polymer có chứa một chất thu được

từ vỏ cam quýt.

Theo vista.gov.vn, 07/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo thành công vật liệu nhân tạo bằng cách sắp xếp các nguyên tử

Các nhà khoa học thuộc trường Đại học

Aalto, Phần Lan cho biết họ vừa sản xuất

thành công một loại vật liệu nhân tạo có thể

tạo ra tính chất điện bằng cách sắp xếp những

cấu trúc vi mô hay được gọi là các "nguyên

tử". Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã sử dụng kính

hiển vi để di chuyển các nguyên tử riêng lẻ

theo một trật tự nhất định nhằm tạo ra một

mạng tinh thể nguyên tử có phản ứng điện hóa

được xác định trước. Khả năng sắp xếp chính

xác các nguyên tử trong một mạng tinh thể có

thể tạo ra các tính chất điện từ của vật liệu

thông qua cấu trúc nguyên tử, góp phần đưa

'vật liệu lượng tử nhân tạo' đến gần hơn với

thực tế, từ đó hướng đến áp dụng đối với các

loại vật liệu tự nhiên.

Trong thí nghiệm, ở điều kiện nhiệt độ 4

độ Kelvin, các chuyên gia đã sử dụng thiết bị

kính hiển vi quét chui hầm (STM) để di

chuyển các nguyên tử và kéo chúng đến vị trí

nhằm tạo ra các khoảng trống trong một lớp

nguyên tử clo trên cấu trúc tinh thể đồng (to

arrange vacancies in a single layer of chlorine

atoms supported on a copper crystal).

TS. Robert Drost cho biết: "Trên thực tế,

cấu trúc tinh thể có vai trò rất quan trọng với

các tính chất điện của vật liệu. Với loại vật

18

liệu mới, chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát,

điều chỉnh cấu trúc của vật liệu theo ý muốn.

Về nguyên tắc, khi đã xác định trước được

tính chất điện của một loại vật liệu bất kỳ,

chúng ta có thể sắp xếp các nguyên tử theo

cấu trúc mong muốn".

Nhóm nghiên cứu đã chứng minh rằng

phương thức lắp ghép nguyên tử của họ cho

phép kiểm soát hoàn toàn cấu trúc của vật liệu

bằng cách tạo ra hai cấu trúc xuất phát từ hệ

thống mô hình cơ bản với các tính chất điện từ

mới.

Phương pháp mới không chỉ được áp

dụng đối với các nguyên tử clo được lựa chọn

trong nghiên cứu mà còn có thể được áp dụng

điều chỉnh đối với những nguyên tử nằm trên

lớp bề mặt nguyên tố đã được tiếp cận ở kích

thước nanô và thậm chí là các nguyên tố có

kích thước trung bình (chấm lượng tử) vốn

được kiểm soát thông qua các quá trình nội

sinh xảy ra trong thạch quyển.

Nghiên cứu viên Teemu Ojanen giải

thích: "Có rất nhiều đề xuất hấp dẫn về lý

thuyết mà trên thực tế chưa được chứng minh

trong các tài liệu khoa học. Do đó, đây chính

là cơ hội để chúng tôi có thể thử nghiệm các ý

tưởng này".

Theo vista.gov.vn, 04/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Biến nước biển thành nước ngọt chỉ bằng một màng lọc mỏng

Các nhà khoa học tại Đại học

Manchester (Anh) vừa tạo ra một loại màng

lọc mới có khả năng loại bỏ muối có trong

nước biển, từ đó biến chúng thành nước ngọt

có thể uống được.

Theo Sky News, màng lọc của các nhà

khoa học tại Đại học Manchester được làm từ

graphene, một loại thù hình của carbon.

Graphene được mệnh danh là loại vật liệu

mỏng nhất thế giới khi có độ dày chỉ ngang

với một nguyên tử và có thể cứng hơn thép

tới 200 lần.

Trước đây, graphene dioxit đã được các

nhà khoa học chú ý tới trong việc chế tạo

màng lọc nước biển. Tuy nhiên, màng

graphene dioxit có nhược điểm là chỉ có thể

lọc được các tinh thể muối lớn, nghĩa là

không lọc được triệt để nước biển. Ngoài ra,

khi tiếp xúc với nước, các lỗ hổng trên màng

graphenne dioxit sẽ trương phồng lên và tạo

điều kiện cho nhiều phân tử muối đi qua.

Khắc phục vấn đề này, các nhà khoa học

tại Đại học Manchester đã tìm cách thêm một

lớp nhựa expoxy vào hai bên của màng lọc

graphene mới. Việc này giúp giảm kích thước

các lỗ trên màng lọc graphene và kiểm soát

để ngăn chúng không bị trương phồng lên khi

gặp nước. Nhờ đó, hiệu quả lọc nước biển của

màng lọc graphene mới đã được tăng lên

đáng kể và có thể biến nước biển thành nước

ngọt uống được.

Khám phá này có tiềm năng trở thành

một cuộc cách mạng trong ngành lọc nước

trên thế giới, đặc biệt là tại các quốc gia thiếu

nước nhưng không có khả năng xây dựng nhà

máy khử muối quy mô lớn. "Đây là một bước

tiến quan trọng và mở ra giải pháp mới để cải

thiện hiệu quả của các công nghệ khử mặn

nước", giáo sư Rahul Nair, người khoa học

đứng đầu nhóm nhiên cứu cho biết.

Graphene là loại vật liệu có nhiều ứng

dụng được khám phá lần đầu tiên vào năm

2004 bởi hai nhà khoa học làm việc tại trường

Đại học Manchester là giáo sư Andre Geim

và giáo sư Kostya Novoselov. Hai vị giáo sư

sau đó đã được trao giải Nobel vào năm 2010

vì khám phá này của mình.

19

Đến năm 2025, Liên hợp quốc dự đoán

là sẽ có khoảng 14% dân số thế giới phải đối

mặt với tình trạng khan hiếm nước. Trong khi

đó, quỹ từ thiện quốc tế WaterAid cho biết là

cứ 10 người trên thế giới lại có một người

không được tiếp xúc với nước sạch và có

khoảng 315.000 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong vì

các bệnh liên quan tới nguồn nước ô nhiễm

mỗi năm. Vì vậy, màng lọc graphene mới rất

có ý nghĩa trong việc giúp thế giới giải quyết

nhu cầu nước sạch ngày một cao hiện nay.

Theo vnreview.vn, 10/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Phát minh mới về thiết bị thu nước từ không khí ở độ ẩm thấp

Thiết bị thu nước từ không khí. (Nguồn: npr.org)

Các nhà khoa học Mỹ đã phát minh một

thiết bị chạy bằng năng lượng Mặt Trời có thể

thu 2,8 lít nước từ không khí trong 12 giờ,

hoạt động trong điều kiện độ ẩm 20-30% và

sử dụng 1kg vật liệu khung hữu cơ (MOF).

Mẫu máy trên, được biết đến như "máy

gặt nước," do Học viện Công nghệ

Massachusetts (MIT) nghiên cứu chế tạo, sử

dụng MOF do Đại học California ở Berkeley

phát triển và cung cấp.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí

Science của Mỹ số ra ngày 16/4.

Giáo sư hóa học tại Đại học California

Berkeley, Omar Yaghi, một trong hai đồng

tác giả công trình, cho biết đây là đột phá lớn

trong nỗ lực lâu nay nhằm thu nước từ không

khí ở độ ẩm thấp. Hiện các nhà khoa học

chưa tìm ra được cách khác để đạt được mục

đích này, ngoại trừ việc sử dụng năng lượng

đặc biệt.

Giáo sư Yaghi đã phát minh ra MOF

cách đây hơn 20 năm, kết hợp các kim loại

như magiê hoặc nhôm với các phân tử hữu cơ

để tạo ra các cấu trúc cứng, nhưng có độ xốp

nhất định để chứa chất lỏng và khí. Kể từ đó,

hơn 20.000 MOF khác nhau đã được các nhà

nghiên cứu trên thế giới tạo ra, một số có thể

thu các chất hóa học như khí hydro hoặc khí

metan, một số khác có thể thu khí thải carbon

dioxide (CO2) hoặc phân tách các sản phẩm

hóa dầu trong các nhà máy.

Năm 2014, giáo sư Yaghi và nhóm

nghiên cứu của ông đã tổng hợp một MOF

mới, kết hợp kim loại ziriconi và acid adipic,

có tác dụng ngưng tụ hơi nước. Ông đã đề

xuất hợp tác với Evelyn Wang, một kỹ sư hóa

tại MIT, để biến MOF này thành một hệ

thống thu nước từ không khí.

Hệ thống mà kỹ sư Evelyn Wang và các

học sinh của bà thiết kế bao gồm những tinh

thể MOF nhỏ cỡ một hạt bụi, được nén giữa

một máy thu năng lượng Mặt Trời và một tấm

bảng ngưng tụ, đặt bên trong một căn phòng

không có mái che. Khi không khí xung quanh

khuếch tán qua tấm xốp MOF, các phân tử

nước sẽ được hút vào các bề mặt bên trong.

Ánh sáng Mặt Trời chiếu vào qua một cửa sổ

sẽ làm nóng MOF và giúp nước chảy xuống

tấm ngưng tụ. Hơi nước ngưng tụ thành dạng

lỏng và chảy vào bộ phận chứa.

Trong bài viết công bố phát minh trên,

bà Evelyn Wang cho biết công trình này mở

ra hướng đi mới trong thu nước từ không khí

mà không đòi hỏi điều kiện độ ẩm cao. Theo

bà, đây cũng là cách tiết kiệm năng lượng hơn

các công nghệ hiện nay.

Bà Evelyn Wang cho biết thêm máy thu

nước này sẽ còn có thể được cải tiến. MOF

hiện chỉ có thể hấp thu lượng nước tương

đương 20% sức nặng của máy, nhưng các vật

liệu MOF có thể thấp thu tới 40% hoặc hơn

nữa. Vật liệu này cũng có thể được cải tiến để

20

tăng tính hiệu quả trong điều kiện độ ẩm cao

hơn hoặc thấp hơn.

Hiện giáo sư Yaghi và nhóm nghiên cứu

đang nỗ lực cải tiến MOF của họ, trong khi

kỹ sư Evelyn Wang tiếp tục nâng cấp hệ

thống thu nước để có thêm nhiều nước.

Giáo sư Yaghi đánh giá tích cực triển

vọng mỗi hộ gia đình có thể thu được nước

bằng một thiết bị tại nhà sử dụng năng lượng

Mặt Trời để đáp ứng nhu cầu sử dụng. Nếu

trở thành hiện thực, điều này sẽ giúp giảm

lượng nước khai thác ngầm, qua đó góp phần

bảo vệ nguồn tài nguyên nước.

Theo vietnamplus.vn, 17/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Lớp phủ có khả năng ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn đường ống dẫn dầu

Thảm họa nổ giàn khoan dầu sâu nhất

thế giới Deepwater Horizon xảy ra trên vịnh

Mexico vào ngày 21 tháng 4 năm 2010 đã

dẫn đến sự cố tràn dầu được đánh giá là

nghiêm trọng và tồi tệ nhất trong lịch sử

ngành công nghiệp dầu khí Hoa Kỳ. Vào thời

điểm đó, các kỹ sư khai thác giếng dầu khẳng

định họ sẽ nỗ lực giải quyết và khắc phục sự

cố rò rỉ chỉ trong vòng vài tuần. Sau đó, vào

ngày 9 tháng 5, lực lượng cứu hộ đã hạ thành

công một vòm ngăn với sức chứa 125 tấn dầu

xuống vị trí phía trên giàn khoan bị chìm

nhằm mục đích dẫn lượng dầu bị rò rỉ lên tàu

chở dầu phía trên thông qua một đường ống

dẫn, từ đó, giúp cải thiện tình trạng rò rỉ dầu

liên tục. Tuy nhiên, biện pháp này lại tỏ ra

chưa thực sự hiệu quả.

Nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự tồn

tại của mê-tan clathrate - một dạng kết cấu

hỗn hợp của nước đóng băng và khí mê-tan.

Dưới điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao ở

đáy biển sâu, hỗn hợp trên hình thành và tồn

tại dưới dạng giống như băng, trôi lơ lửng bên

trong vòm ngăn, làm tắc đường thoát của ống

dẫn dầu, làm cản trở quá trình chuyển hướng

dòng chảy. Nếu không có sự tồn tại của lớp

băng clathrate thì biện pháp sử dụng vòm

ngăn đã có thể phát huy tác dụng và tình trạng

dầu tràn, rò rỉ liên tục trong khoảng thời gian

bốn tháng dẫn đến phá huỷ hệ sinh thái biển

lan rộng đã có thể được ngăn chặn.

Mới đây, trong một bài báo được đăng

trên tạp chí Vật liệu ứng dụng và Giao diện

ACS, một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện

Công nghệ Massachusetts (MIT) gồm Kripa

Varanasi - tiến sĩ chuyên ngành kỹ thuật cơ

khí, Arindam Das - nghiên cứu sinh sau tiến

sĩ cùng các đồng nghiệp đã giới thiệu và trình

bày một giải pháp mới có khả năng ngăn chặn

sự tích tụ các tinh thể băng, nhờ đó, khắc

phục hiện tượng tắc nghẽn bên trong các

đường ống dẫn dầu và khí - yếu tố nguy cơ

dẫn đến khó khăn trong việc làm sạch hoặc tệ

hơn là gây rò rỉ do sự gia tăng áp lực bên

trong đường ống dẫn dầu.

Ưu điểm của giải pháp mới là kỹ thuật

phủ lên bên trong thành ống dẫn một lớp vật

liệu, giúp đẩy nhanh dòng chảy của lớp phủ

chống nước dọc theo bề mặt bên trong đường

ống. Nhóm nghiên cứu cho biết lớp phủ

chống thấm nước có khả năng ngăn chặn hiệu

quả quá trình dính kết giữa các phân tử băng

hay các giọt nước với thành ống dẫn, nhờ đó,

cản trở quá trình tích tụ khí clathrat - nguyên

nhân làm chậm hoặc ngăn chặn dòng chảy

trong ống.

Không giống như những phương pháp

được cho là tốn kém và gây ô nhiễm môi

trường đã được áp dụng trước đó như: tăng

nhiệt độ bên trong thành ống, hạ áp suất hay

sử dụng các chất phụ gia hóa học, phương

pháp mới mang tính hoàn toàn thụ động, nghĩa

là, không cần thiết phải bổ sung năng lượng

21

hay vật liệu hỗ trợ khác. Bề mặt lớp phủ hút

hỗn hợp hydrocacbon lỏng trong vết dầu

loang, tạo nên một lớp bề mặt mỏng có khả

năng dễ dàng đẩy nước, ngăn hiện tượng bám

dính của các tinh thể băng vào thành ống dẫn.

Varanasi cho biết: "Mục đích của những

biện pháp khắc phục tình trạng tràn dầu đang

được áp dụng hiện nay là nhằm đảm bảo

dòng chảy. Tuy nhiên, nhược điểm của những

biện pháp này là chi phí cao và không thân

thiện với môi trường. Hàng năm, chúng tôi

phải chi hàng trăm triệu đô la cho các nỗ lực

nhằm đối phó và giải quyết sự cố tràn dầu.

Nếu không áp dụng những biện pháp này, tốc

độ dòng chảy sẽ giảm dần do sự tích tụ các

tinh thể hydrat, thậm chí, hiện tượng tắc

nghẽn cũng có nguy cơ xảy ra, khi đó, hậu

quả để lại là vô cùng nguy hiểm. Đây chính là

một vấn đề đáng quan ngại đối với ngành

công nghiệp dầu khí, xét về cả mức độ an

toàn cũng như độ tin cậy".

Das - tác giả chính của bài báo cho biết:

“Vấn đề này có thể trở nghiêm trọng hơn bởi

khí mê-tan được tìm thấy ở nhiều nơi, bao

gồm cả thềm lục địa và những tầng địa chất

sâu dưới lòng đại dương và đặc biệt nó được

xem như một nguồn nhiên liệu tiềm năng mới

cần trích xuất. Bên cạnh đó, nguồn nhiên liệu

này về cơ bản sẽ chiếm ưu thế so với toàn bộ

các nguồn nhiên liệu khác như dầu và khí tự

nhiên trên đất liền và dưới đáy biển”.

Tuy nhiên, tinh thể băng và cặn thường

được hình thành từ những chất lắng đọng.

Farnham cho biết: "Các biện pháp nhằm ngăn

chặn quá trình tích tụ băng đá phụ thuộc rất

nhiều vào việc phá vỡ mối kết dính của các

phân tử clathrate với thành ống dẫn ngay từ

thời điểm ban đầu. Một khi tình trạng này xảy

ra, phân tử clathrate sẽ hút các phân tử khác,

dẫn đến tích tụ, kết tủa nhanh chóng. Do vậy,

chúng tôi đang nỗ lực tìm kiếm phương pháp

giảm thiểu nguy cơ bám dính ngay từ thời

điểm ban đầu của các phân tử clathrate trên

thành ống dẫn".

Giải pháp mới có đặc điểm tương tự kỹ

thuật được áp dụng tại công ty Varanasi thành

lập để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu

trước đó mà ông đã thực hiện trong phạm vi

phòng thí nghiệm, đó là: tạo một lớp phủ trên

bề mặt thành bên trong các loại chai lọ chứa

nước sốt, mật ong nhằm khắc phục hiện

tượng bám dính của thành phần thực phẩm

với lớp sơn và các loại hóa chất nông nghiệp.

Quá trình thực hiện kỹ thuật gồm hai bước:

bước đầu tiên là tạo ra một lớp phủ kết cấu

trên bề mặt thành của các lọ chứa, tiếp đó, bổ

sung một chất bôi trơn cấu trúc giúp cải thiện

tình trạng bám dính.

Hệ thống đường ống dẫn mới cũng hoạt

động theo cách thức tương tự - Varanasi giải

thích. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chúng

tôi sử dụng chính loại chất lỏng cấu trúc có sẵn

trong môi trường thay vì sử dụng chất bôi trơn

bề mặt. Bên cạnh các loại khí thiên nhiên, yếu

tố chủ yếu dẫn đến hình thành clathrate là các

phân tử nước. Do đó, việc ngăn nước lọt qua

ống dẫn cũng đồng nghĩa với việc khắc phục

được tình trạng tích tụ clathrate. Khi đó, quá

trình các phân tử hydrocarbon dạng lỏng trong

dầu loang bám dính vào bề mặt bên trong

thành ống nhờ lớp phủ bề mặt, có thể ngăn

nước một cách hiệu quả.

Varanasi nói rằng: "Quá trình dầu loang

lan rộng sẽ tạo thành một màng chắn giữa

nước và bề mặt thành ống. Trong quá trình

thử nghiệm, nhóm nghiên cứu đã sử dụng một

chất hóa học giả khí mê-tan vì khí mê-tan thực

sự hình thành trong điều kiện áp suất cao nên

rất khó có thể tái sản xuất trong quy mô phòng

thí nghiệm. Trên thực tế, hệ thống này hoạt

động rất hiệu quả. Qua quan sát, Varanasi

khẳng định không có hiện tượng các phân tử

hydrat bám dính vào bề mặt thành ống dẫn”.

Theo vista.gov.vn, 24/04/2017

Trở về đầu trang

**************

22

Phương pháp mới để giảm tiếng ồn giao thông đường bộ

Các nhà khoa học thuộc Đại học

Granada (UGR), Tây Ban Nha và Đại học

Southampton, Anh, đã thiết kế một phương

pháp mới để giảm thiểu các vấn đề tiếng ồn

do giao thông đường bộ gây ra.

Việc áp dụng Hướng dẫn tiếng ồn môi

trường châu Âu (END) bởi các cơ quan quản

lý nhà nước khác nhau của các nước thành

viên EU liên quan đến tiếng ồn giao thông

đường bộ đã tạo ra một số lớn các Kế hoạch

Hành động về tiếng ồn bởi các chính quyền

chịu trách nhiệm về cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, chỉ thị này đã không thiết lập

một quy trình được quy định cho phép lựa

chọn những đoạn đường quan trọng nhất đòi

hỏi một số hành động, và sau khi lựa chọn

được đoạn đường, lựa chọn phương án phù

hợp nhất để chống lại tiếng ồn.

Nghiên cứu đề xuất sử dụng dữ liệu có

sẵn từ các tổ chức chịu trách nhiệm về cơ sở

hạ tầng.

Phương pháp này, được gọi là

'PATRON' (Các hành động ưu tiên chống

tiếng ồn đường bộ), bao gồm hai giai đoạn.

Giai đoạn đầu tiên gồm có xác định và cân

nhắc các tiêu chí chính được sử dụng để ưu

tiên các đoạn đường trong kế hoạch một cách

khách quan và hợp lý. Trong giai đoạn thứ

hai, chọn các phương án thích hợp cho từng

đoạn đường.

Sản phẩm cuối cùng là một phương pháp

mà bất kỳ thực thể nào có thể thực hiện và

giúp đưa ra quyết định bằng cách lựa chọn các

giải pháp phù hợp nhất để giảm sự phơi nhiễm

với tiếng ồn phát sinh trên mỗi đoạn đường,

khi các khu vực cần hành động đã lựa chọn.

Alejandro Ruiz Padillo, tác giả chính

của bài báo giải thích rằng, ngoài ra, việc áp

dụng phương pháp PATRON có thể thực hiện

bất kể mô phỏng hay kỹ thuật nào được sử

dụng để đo tiếng ồn. Do đó, nó có thể dễ dàng

áp dụng cho các giai đoạn thực hiện Hướng

dẫn ồn ào Môi trường ở châu Âu trong thời

gian tới, đặc biệt là hiện nay phương pháp

CNOSSOS-EU sẽ được sử dụng làm phương

pháp chung để lập bản đồ tiếng ồn chiến lược

ở châu Âu từ năm 2017 trở đi.

Theo vista.gov.vn, 07/04/2017

Trở về đầu trang

**************

Hệ thống “Lá bionic” có khả năng sản xuất phân bón

Vào nửa cuối của thế kỷ 20, việc sử dụng

rộng rãi phân bón hóa học được coi là yếu tố

góp phần gây bùng nổ cuộc cách mạng trong

lĩnh vực nông nghiệp hay còn gọi là "cuộc

cách mạng xanh", giúp giải quyết vấn đề thiếu

lương thực cũng như ngăn chặn cuộc khủng

hoảng lương thực toàn cầu. Tuy nhiên, hiện

nay, cùng với thực trạng dân số ngày càng gia

tăng thì áp lực nhằm đáp ứng nhu cầu về

lương thực thực phẩm cho người dân cũng

tăng lên đáng kể. Trong nỗ lực nhằm duy trì

và thúc đẩy những thành tựu mà cuộc cách

mạng xanh đem lại, các nhà nghiên cứu đã

phát triển một loại lá "bionic" có khả năng sử

dụng vi khuẩn, ánh sáng mặt trời, nước và

không khí để sản xuất phân bón hữu cơ cho

cây trồng.

TS. Daniel Nocera - người đứng đầu

nghiên cứu cho biết: "Chúng ta chỉ có thể thực

hiện sản xuất và phân phối phân bón khi các

điều kiện về quy trình sản xuất tập trung cũng

như cơ sở hạ tầng quy mô lớn được đáp ứng

23

đầy đủ. Tuy nhiên, ở những nơi đời sống

người dân còn gặp nhiều khó khăn như ở

những ngôi làng nghèo tại Ấn Độ thì lại khác.

Các nước nghèo trên thế giới không phải lúc

nào cũng có đầy đủ các nguồn lực để đáp ứng

nhu cầu cần thiết để phát triển hệ thống sản

xuất và hệ thống phân phối phân bón".

Cuộc cách mạng xanh đầu tiên trong những

năm 1960 đã chứng kiến sự gia tăng nhu cầu sử

dụng phân bón đối với các giống cây lương

thực chính như lúa gạo và lúa mì, sản lượng

nông nghiệp nhờ đó cũng tăng lên gấp đôi.

Theo Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc

(U.N.), mặc dù được cho là nguyên nhân dẫn

đến một số vấn đề nghiêm trọng về ô nhiễm

môi trường, nhưng sự chuyển đổi này cũng đã

góp phần cứu đói cũng như cải thiện đời sống

của hàng triệu người dân nghèo, đặc biệt là ở

các nước châu Á. Tuy nhiên, trên thực tế, dân

số thế giới vẫn đang trên đà phát triển và được

dự đoán sẽ tăng lên tới hơn 2 tỷ người vào năm

2050. Sự tăng trưởng này chủ yếu diễn ra ở

một số nước nghèo nhất, đặt ra một loạt thách

thức toàn cầu mà người dân có nguy cơ phải

đối mặt, vì vậy, đòi hỏi phải có những biện

pháp, cách thức đa dạng. Các chuyên gia cho

biết một trong những giải pháp sẽ là thực hiện

tăng năng suất cây trồng mà không cần tránh

phát quang thêm đất để canh tác.

Một trong những phát minh đóng góp vào

thành công trong cuộc cách mạng xanh kế tiếp

là hệ thống lá nhân tạo có khả năng sản xuất

phân bón - công trình nghiên cứu của TS.

Nocera vào năm 2011. Lá nhân tạo khi tiếp

xúc với ánh nắng mặt trời có khả năng mô

phỏng quá trình quang hợp ở lá cây tự nhiên,

phân tách các phân tử nước thành hyđrô và

ôxy. Ở phiên bản mới, TS. Nocera cùng cộng

sự đã kết hợp chất xúc tác tách nước với một

loại vi khuẩn có tên gọi Ralstonia eutropha,

tiêu thụ khí hydro và lấy khí lấy các-bon

điôxít (CO2) từ không khí xung quanh để tạo

ra nhiên liệu lỏng.Tháng 6 năm ngoái, nhóm

nghiên cứu của Nocera đã báo cáo việc

chuyển đổi sử dụng từ các chất xúc tác niken,

molybdenum, kẽm vốn có khả năng tiêu diệt

vi khuẩn sang hợp chất coban và phosphorus

thân thiện với vi khuẩn. Hệ thống mới cung

cấp nhiên liệu sinh học được sản xuất từ

nguồn nguyên liệu sinh khối và nhiên liệu

lỏng với hiệu suất vượt trội so với quá trình

quang hợp tự nhiên.

Nocera cho biết: "Các nhiên liệu chỉ là

bước đầu tiên. Hiện nay, chúng tôi đưa vào hệ

thống mới một loại vi khuẩn khác có khả năng

hấp thụ nguồn dinh dưỡng nitơ trong không

khí để sản xuất ra phân bón nhân tạo với hiệu

suất cao hơn".

Cụ thể, nhóm nghiên cứu của Nocera bổ

sung thêm vi khuẩn Xanthobacter vào hệ

thống. Vi khuẩn này cố định lượng hiđrô thu

được từ lá nhân tạo, kết hợp với việc lấy các-

bon điôxít từ khí quyển để tạo ra một loại chất

dẻo sinh học. Chất này được lưu giữ bên trong

vi khuẩn như một nguồn nhiên liệu.

Nocera nhấn mạnh “Loại vi khuẩn mới có

khả năng tổng hợp ánh nắng mặt trời để tạo

ra chất dẻo sinh học. Tiếp theo, chúng lấy nitơ

từ không khí và sử dụng chất dẻo sinh học, về

cơ bản là hyđrô cố định, để thúc đẩy chu kỳ

định hình sản xuất amôniac để bón phân cho

cây trồng".

Nhóm nghiên cứu đã phân tích lượng

amôniac sản xuất được từ hệ thống lá nhân tạo

sau khi tiến hành thực nghiệm trên cây củ cải

trong năm chu kỳ canh tác. Các chuyên gia

nhận định rằng các loại cây được tưới phân

bón được tạo ra bởi lá nhân tạo phát triển to

gấp hơn 1,5 lần so với nhóm cây được trồng

theo phương pháp tự nhiên. Nocera khẳng

định đây chính là dấu hiệu cho thấy trong

tương lai không xa, công nghệ mới hoàn toàn

có thể được áp dụng ở Ấn Độ hoặc tiểu vùng

Kết quả công trình nghiên cứu đã được trình bày

tại Hội nghị và Triển lãm quốc gia lần thứ 253 của Hiệp hội Hoá học Hoa Kỳ (ACS).

24

Sahara, châu Phi giúp cải thiện năng suất cây

trồng bằng chính loại phân bón họ tự sản xuất.

Theo vista.gov.vn, 10/04/2017

Trở về đầu trang

**************

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0016579 Bàn chải đánh răng có lắp động cơ

Tác giả: Cai Heng (US), Boyd Thomas

James (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến dụng cụ chăm sóc

răng miệng, như bàn chải đánh răng có lắp

động cơ, nó được kích hoạt khi đặt vào môi

trường miệng của người sử dụng. Khả năng

dẫn điện của nước bọt, khi nước bọt này

được trộn một cách tùy ý với kem đánh răng

và nước, có thể được dùng để đóng mạch

điện, mạch điện này cấp điện cho cơ cấu có

động cơ bên trong dụng cụ chăm sóc răng

miệng này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016598 Dụng cụ chăm sóc răng miệng

Tác giả: Jimenez Eduardo (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến dụng cụ chăm sóc

răng miệng quay quanh đường trục dọc. Theo

một khía cạnh, sáng chế đề cập đến dụng cụ

chăm sóc răng miệng bao gồm: đầu bàn chải;

tay cầm kéo dài dọc theo đường trục dọc và

có bề mặt đế phẳng; cơ cấu rung cơ học nối

vận hành được với nguồn điện, cơ cấu rung

cơ học bao gồm phần lệch tâm sẽ truyền

chuyển động vào đầu bàn chải khi được kích

hoạt; và trong đó bề mặt đế phẳng được định

hướng tương đối so với đường trục dọc của

tay cầm sao cho dụng cụ chăm sóc răng

miệng có thể đứng theo hướng thẳng đứng tự

đỡ trên bề mặt phẳng nằm ngang, và trong đó

khi dụng cụ chăm sóc răng miệng đứng theo

hướng thẳng đứng tự đỡ và cơ cấu rung cơ

học được kích hoạt, dụng cụ chăm sóc răng

miệng quay quanh đường trục dọc đồng thời

duy trì hướng thẳng đứng tự đỡ.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

25

1-0016439 Mỹ phẩm dạng nhũ tương nước trong dầu

Tác giả: Sasaki Kazutaka (JP),

OmuraTakayuki (JP), Kitajima Masaki (JP) .

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến mỹ phẩm dạng nhũ

tương nước trong dầu, mỹ phẩm dạng nhũ

tương nước trong dầu này có tính ổn định nhũ

hóa cao trong trường hợp thành phần dầu

hydrocacbon dễ bay hơi được bổ sung vào, có

đặc tính tốt như không để lại cảm giác nhờn

dính khi sử dụng và phù hợp với da. Cụ thể,

sáng chế đề xuất mỹ phẩm dạng nhũ tương

nước trong đầu chứa:

(A) thành phần dầu với lượng nằm trong

khoảng từ 20 đến 30% khối lượng;

(B) este của axit béo có trị số HLB nằm

trong khoảng từ 5 đến 10;

(C) chất hoạt động bề mặt không phân ly

có trị số HLB nằm trong khoảng từ 1 đến 4;

(D) khoáng chất đất sét biến đổi hữu cơ;

(E) nước, trong đó dầu hydrocacbon dễ

bay hơi chiếm ít nhất 10% khối lượng của

thành phần dầu

(A) và không chứa dầu silicon.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016588 Dạng thuỷ tinh rắn của hợp chất metyl 2-xyano-3,12-đioxoleana-1,9(11)-đien-28-oat (CDDO metyl este) và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Walling John (US), Parent

Stephan D. (US), Jonaitis David T. (US), Kral

Robert M. (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất

triterpenoid, metyl 2-xyano-3,12-đioxoleana-

1,9(11)-đien-28-oat (CDDO metyl este), có

dạng thủy tinh rắn, không kết tinh và dạng

tinh thể không ngậm nước, các dạng này có

thể được điều chế, ví dụ, từ dung dịch

metanol bão hòa. Dạng thủy tinh thể hiện độ

sinh khả dụng được tăng cường so với dạng

tinh thể không ngậm nước. Mỗi dạng của

CDDO metyl este là ứng viên tốt để sử dụng,

thông thường ở dạng liều rắn, để điều trị

nhiều tình trạng bệnh khác nhau, các tình

trạng bệnh này thường có liên quan đến

chứng viêm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016590 Hợp chất vòng xoắn làm chất ức chế 11-beta hydroxyl steroit dehydrogenaza typ 1 và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Yao Wenqing (US), Zhuo

Jincong (US), Zhang Colin (CN). Quốc gia: Mỹ

26

Sáng chế đề cập đến hợp chất vòng xoắn

là chất ức chế 11-β hydroxyl steroit

dehydrogenaza typ 1 (11βHSD1), và dược

phẩm chứa hợp chất này. Hợp chất này là hữu

dụng để điều trị bệnh đái tháo đường, bệnh

béo phì và các bệnh khác.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016600 Hợp chất pyrimidin được liên kết oxy, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Blanchard Stephanie (FR), Lee

Cheng Hsia, Angeline (SG), Nagaraj Harish,

Kumar Mysore (IN),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất pyrimidin,

hợp chất này là hữu hiệu để làm chất chống

tăng sinh. Cụ thể hơn, sáng chế đề cập đến

hợp chất pyrimidin được liên kết và được thế

oxy, phương pháp điều chế các hợp chất này

và dược phẩm chứa các hợp chất này. Các

hợp chất này có thể dùng làm thuốc để điều

trị một số rối loạn tăng sinh bao gồm khối u

và bệnh ung thư cũng như các rối loạn hoặc

tình trạng khác có liên quan đến kinaza.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016621 Hợp chất pyrazolopyrimidinthion, muối và solvat của hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: ) Li Shuxin (CN), Ren Jianping

(CN), Zhao Yanjin (CN), LV Qiujun (CN),

Guo Jinhua (CN).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất

pyrazolopyrimidinthion, muối và solvat của

hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất

này. Hợp chất pyrazolopyrimidinthion theo

sáng chế có công thức I, trong đó R1, R2, R3,

và R4 là alkyl, alkenyl, hoặc aryl; R5 là hydro,

alkyl, alkenyl, alkoxy, xycloalkyloxy, aryl,

hoặc alkylaxyl; và R6 là hydro, alkyl, alkenyl,

xycloalkyloxy, hoặc alkylaxyl. Dược phẩm

chứa hợp chất theo sáng chế được dùng để

điều trị bệnh liệt dương và chứng lãnh dục

nữ. Dược phẩm này có các ưu điểm là có tính

chọn lọc PDE V cao, thời gian tác dụng kéo

dài, có ít phản ứng phụ và dược phẩm này

không có phản ứng phụ như làm giảm huyết

áp và làm tăng nhịp tim và có triển vọng lớn

trên thị trường.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

27

1-0016398 Kháng thể gắn kết với STEAP-1 và thể tiếp hợp miễn dịch chứa kháng thể này dùng để điều trị bệnh ung thư

Tác giả: Dennis Mark, S. (US),

Rubinfeld Bonnee (US), Polakis Paul (US),

Jakobovits Aya (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến kháng thể kháng

STEAP-l và thể liên hợp miễn dịch chứa

kháng thể này dùng để điều trị bệnh ung thư.

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến

polynucleotit mã hóa kháng thể, vector chứa

polynucleotit, tế bào chủ chứa vector, phương

pháp phát hiện sự có mặt của STEAP-1 trong

mẫu sinh học và dược phẩm chứa thể liên hợp

này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016401 Hợp chất triazolopyridin, phương pháp điều chế chúng, dược phẩm chứa chúng, dược phẩm phối hợp chứa chúng và các hợp chất trung gian

sử dụng để điều chế chúng

Tác giả: Schulze Volker (DE),

Kosemund Dirk (DE), Wengner Antje

Margret (DE),…

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến hợp chất

triazolopyriđin có công thức chung (I):

trong đó, R1, R

2, R

3, R

4, và R

5 là như

được nêu trong phần mô tả và trong các điểm

yêu cầu bảo hộ, phương pháp điều chế hợp

chất này, các hợp chất trung gian hữu ích để

điều chế hợp chất này, dược phẩm và dược

phẩm phối hợp chứa hợp chất này. Hợp chất

này hữu hiệu dùng để bào chế dược phẩm để

điều trị hoặc phòng ngừa bệnh.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016403 Hợp chất morpholin và thiomorpholin được thế và dược phẩm chứa chúng

Tác giả: Wenzel Tornoe Christian (DK),

Rottlander Mario (DE), Khanzhin Nikolay

(RU),…

Quốc gia: Đan Mạch

Sáng chế đề cập đến hợp chất morpholin

và thiomorpholin có công thức chung I hoặc

muối dược dụng của chúng và dược phẩm

chứa chúng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

28

1-0016405 Hợp chất chống khối u, quy trình điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Rodriguez Vicente, Alberto

(ES), Garranzo Garcia-Ibarrola, Maria (ES),

Murcia Perez, Carmen (ES),…

Quốc gia: Tây Ban Nha

Sáng chế đề cập đến hợp chất có tác

dụng điều trị bệnh ung thư có công thức

chung (I):

trong đó A, Y, W, R1, R2, R3, R4, R5, và

R6 là như được xác định trong bản mô tả.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

***************

1-0016482 Hợp chất oxindol được thế và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Braje Wilfried (DE), Netz

Astrid (DE), Oost Thorsten (DE),..

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến hợp chất oxindol

được thế có công thức (I), trong đó các ký

hiệu là như được xác định trong bản mô tả, và

dược phẩm chứa hợp chất này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016481 Sản phẩm protein lên men và phương pháp sản xuất sản phẩm protein lên men

Tác giả: HANSEN Ole Kaae (DK).

Quốc gia: Đan Mạch

Sáng chế đề cập đến các sản phẩm

protein có giá trị dinh dưỡng được cải thiện,

và các tính chất cảm quan được tăng cường

và việc sử dụng chúng. Cụ thể, sáng chế đề

cập đến các sản phẩm lên men giàu protein

được chế biến từ các loại đậu lên men và nấm

men, trong đó quá trình lên men được tiến

hành sau bước gia nhiệt. Ngoài ra, sáng chế

còn đề cập đến phương pháp sản xuất sản

phẩm protein lên men này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016408 Chủng Corynebacterium sp. có năng suất sản xuất L-lysin cải thiện và phương pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử dụng chủng này

Tác giả: Rah So Yeon (KR), Lim Sang

Jo (KR).

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến chủng

Corynebacterium sp. có năng suất sản xuất L-

lysin cải thiện, trong đó chủng này có hoạt

tính của glyxeralđehyt-3-phosphat

đehyđrogenaza phụ thuộc NADP và phương

pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử dụng

chủng này. Nhờ dùng chủng

Corynebacterium sp. theo sáng chế và

phương pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử

29

dụng chủng này, có thể thu được L-lysin với

hiệu suất cao.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016429 Bao bì đựng thức ăn trẻ em dạng bột và phương pháp

sản xuất bao bì này

Tác giả: Rita Karen Crawford (GB),

Nicolaas Luttik (NL).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến bao bì và phương

pháp sản xuất bao bì để đựng thức ăn trẻ em

dạng bột. Bao bì đựng thức ăn trẻ em dạng

bột bao gồm phần hộp, được làm từ tấm giấy

(bìa), lá kim loại và vật liệu chất dẻo. Bột

được nạp vào hộp này và mối gắn là màng

chất dẻo mà cố định vào thành hộp nhờ gắn

nhiệt được dán lên đỉnh của mức bột. Một khe

hở nằm giữa màng và nắp trên hộp (ở trạng

thái đóng). Thìa được lắp trong khe này. Sau

lần sử dụng đầu tiên, thìa được giữ vào trong

nắp. Nắp được trang bị phần nổi để chứa thìa.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016558 Chế phẩm thích hợp để sử dụng trong công trình xây dựng và quy trình sản xuất chế phẩm này

Tác giả: Pradeep Vasant Joshi (IN),

Shilpa Pradeep Joshi (IN).

Quốc gia: Ấn Độ

Sáng chế đề cập đến chế phẩm thích hợp

để sử dụng trong công trình xây dựng, trong

đó chế phẩm này chứa nước, chất làm đặc,

chất làm ổn định độ pH, chất bảo quản, chất

kết tụ, chất gắn kết tiền polyme hóa dạng

anion, tro đáy, hỗn hợp hạt silic oxit, đá dăm,

chất gia trọng và chất độn. Chế phẩm theo

sáng chế thân thiện với môi trường, không

chứa xi măng Poóc-lăng, ở dạng hỗn hợp ướt

sử dụng được ngay với thời gian sống và thời

hạn sử dụng kéo dài. Chế phẩm được tạo ra

theo sáng chế dùng làm vữa xây, vữa trát/vữa

láng, vữa sửa chữa, vữa lỏng và vật liệu trám

vết nứt.

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến quy

trình sản xuất chế phẩm nêu trên.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

348/2017

Trở về đầu trang

**************

30

1-0016560 Nắp đậy cho bình chứa

Tác giả: Sharpe Andrew (GB).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến nắp đậy cho bình

chứa một chế phẩm dạng lỏng, nắp đậy này

gồm phần nắp (1) và đế (2) được nối với nhau

bằng một khớp nối, phần nắp có một gờ tiếp

xúc với đế mà nối với đế và miếng đệm bằng

nhựa đàn hồi mà tách biệt khỏi gờ tiếp xúc

với đế.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016617 Chế phẩm nhựa để đúc xốp liên kết ngang, vật đúc xốp liên kết ngang và phương pháp sản xuất vật đúc xốp liên kết ngang

Tác giả: Yamada Katsuhiro (JP), Nozue

Yoshinobu (JP)

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm nhựa để

đúc xốp liên kết ngang chứa: hợp phần

polyme, hợp phần này chứa thành phần (A)

dưới đây với lượng 100 phần trọng lượng và

thành phần (B) dưới đây với lượng nằm trong

khoảng từ 0,5 đến 20 phần trọng lượng; chất

tạo xốp; và chất tạo liên kết ngang, trong đó

thành phần (A) là polyme nền etylen thoả

mãn các điều kiện (a1) đến (a2) sau đây:

(a1) tỷ trọng nằm trong khoảng từ 860

đến 935kg/m3, và

(a2) tốc độ dòng nóng chảy (MFR) nằm

trong khoảng từ 0,1 đến 10g/10 phút.

thành phần (B) là copolyme etylen-α-

olefin thoả mãn các điều kiện (b1) đến (b3)

sau đây:

(b1) tỷ trọng nằm trong khoảng từ 890

đến 925kg/m3,

(b2) độ nhớt thực [η] được xác định

trong dung dịch tetralin nằm trong khoảng từ

4 đến 15 dL/g, và

(b3) năng lượng hoạt hoá của dòng (Ea)

nhỏ hơn 50kJ/mol.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 348/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016406 Quy trình lọc nước trong bể và thiết bị hút

Tác giả: Fischmann Torres, Fernando,

Benjamin (CL).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến quy trình lọc nước

trong bể, trong đó việc lọc được thực hiện đối

với một thể tích nước nhỏ và không phải đối

với toàn bộ nước trong bể, quy trình này bao

gồm các bước sau: (a) phát ra sóng siêu âm

trong bể; (b) bổ sung chất keo tụ vào nước;

(c) xử lý đáy bể bằng thiết bị hút mà hút dòng

nước có các hạt keo tụ; d) xả dòng ra của thiết

bị hút đến ống gom dòng ra; (e) lọc dòng ra

của thiết bị hút ra khỏi ống gom dòng ra; và

(f) đưa dòng đã được lọc trở lại bể.

Sáng chế còn đề cập đến thiết bị hút

được sử dụng trong quy trình lọc này.

31

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016404 Chi tiết chống rung và chống ồn dùng cho thiết bị in chứa chế phẩm đàn hồi dẻo nhiệt

Tác giả: Hiroaki Nakano (JP), Hideyuki

Okuyama (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chi tiết chống rung

và chống ồn dùng cho thiết bị in chứa chế

phẩmđàn hồi dẻo nhiệt có tính năng chống

rung và tính năng chống ồn mỹ mãn, và có

độmềm dẻo, độ bền mài mòn và khả năng gia

công ở mức độ cần thiết cho chi tiết (ví

dụ,con lăn) được sử dụng trong thiết bị tạo

hình ảnh (ví dụ, máy in). Chế phẩm đàn hồi

dẻo nhiệt chứa thành phần cao su mà chứa

cao su butyl ở tỷ lệ nằm trong khoảng từ 30

đến80% khối lượng (tính theo thành phần cao

su), và còn chứa nhựa dẻo nhiệt olefin với

lượng nằm trong khoảng từ 15 đến 50 phần

khối lượng (tính toàn bộ) và chất đàn hồi dẻo

nhiệt styren đã hydro hóa với lượng nằm

trong khoảng từ từ 10 đến 100 phần khối

lượng (tính toàn bộ) tính theo 100 phần khối

lượng thành phần cao su, trong đó thành phần

cao su được phân tán mịn bằng cách liên kết

ngang động.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016410 Bộ nhận dạng thứ hai bằng kỹ thuật điện tử số cho phương tiện giao thông

Tác giả: Chen Weng Onn (SG).

Quốc gia: Singapo

Sáng chế đề cập đến bộ nhận dạng thứ

hai bằng kỹ thuật điện tử số của phương tiện

được sử dụng để ngăn cản các hoạt động tội

phạm và để hiển thị biển số của phương tiện ở

một vị trí rõ ràng hơn và cao hơn so với biển

sổ đăng ký của phương tiện ban đầu, làm cho

người dân dễ chú ý hơn khi phương tiện liên

quan đến quá trình gây án. Hơn nữa, nó cũng

còn được sử dụng để tăng cường sự an toàn

trong vận hành của phương tiện vì nó được

kích hoạt khi phương tiện tăng tốc, giảm tốc,

va chạm hoặc chuyển hướng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

32

1-0016411 Chế phẩm dầu bôi trơn dùng để bôi trơn động cơ ô tô và phương pháp bôi trơn động cơ

Tác giả: Hiroki Andoh (JP), Nakazato

Morikuni (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm dầu bôi

trơn có hiệu suất sử dụng nhiên liệu cao và có

khả năng chống mài mòn cao và đặc biệt

thích hợp để bôi trơn động cơ xăng bốn kỳ

của xe máy hoặc phương tiện sử dụng động

cơ diezel có thiết bị hậu xử lý khí thải. Chế

phẩm dầu bôi trơn này, là chế phẩm dầu bôi

trơn có cấp độ phân loại độ nhớt theo Hiệp

hội kỹ sư ô tô Hoa Kỳ (Society of

Automobile Engineers - SAE) là 5W20, chứa

dầu nền và lượng cụ thể của các thành phần

chất phụ gia bao gồm chất phân tán không tạo

tro chứa nitơ, chất tẩy rửa chứa kim loại kiềm

thổ, chất chống mài mòn chứa phospho, chất

chống oxy hóa và chất cải thiện chỉ số độ

nhớt, trong đó chỉ số độ nhớt nằm trong

khoảng từ 140 đến 230, độ nhớt tại tốc độ cắt

cao ở nhiệt độ l500C là 2,9 mPa.s hoặc cao

hơn và tổn thất do bay hơi NOACK là 13%

hoặc nhỏ hơn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016413 Vải làm mát và phương pháp sản xuất vải này

Tác giả: Araujo, Christopher (US),

Blackford Michael Woody E. (CA)

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến vải làm mát dùng cho

đồ may mặc, vải này bao gồm: vật liệu nền có

đặc tính truyền được làm phù hợp để cho

phép thành phần tự nhiên đi qua vật liệu nền;

và tấm chứa các chi tiết làm mát ghép với mặt

thứ nhất của vật liệu nền, các chi tiết làm mát

là được làm phù hợp để hấp thụ nhiệt khi tiếp

xúc với hơi ẩm, trong đó sự sắp xếp và

khoảng cách của các chi tiết làm mát cho

phép vật liệu nền giữ được một phần hiệu quả

của đặc tính truyền. Ngoài ra sáng chế còn đề

cập đến phương pháp sản xuất vải làm mát

này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016414 Hợp chất đổi màu theo ánh sáng, chế phẩm và vật dụng

chứa hợp chất này

Tác giả: Chopra Anu (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức I:

trong đó phần tử thế R16

, R17

và R17'

độc lập

được chọn từ nhóm hút điện tử có trị số

33

Hammett σp17 nằm trong khoảng từ 0,05 đến

0,85, với điều kiện là một trong các phần tử

thế R16

và R17

là hydro.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016422 Đế trong của giày

Tác giả: Su-Miao Lin (TW).

Quốc gia: Đài Loan

Sáng chế đề cập tới đế trong của giày

bao gồm lớp đỡ, chi tiết đệm, lớp vải, lớp xốp

và lớp da được bố trí chồng lên nhau theo thứ

tự này. Lớp đỡ được tạo ra có phần giữa,

phần vòng cung và phần gót sao cho tương

ứng với gan bàn chân người sử dụng. Chi tiết

đệm được làm bằng vật liệu đệm thứ nhất để

được kết hợp với phần vòng cung và vật liệu

đệm thứ hai sẽ được gài với phần gót. Nhờ

kết cấu như vậy, phần giữa, phần vòng cung

và phần gót của lớp đỡ của đế trong có thể

hiệu chỉnh và đỡ bàn chân người sử dụng, và

chi tiết đệm có thể tạo ra hiệu quả giảm chấn

và tác dụng đệm. Tóm lại, đế trong của giày

theo sáng chế không những có thể hiệu chỉnh

hình dạng bàn chân người sử dụng mà còn tạo

cảm giác thoải mái khi sử dụng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016423 Phương pháp và thiết bị mã hóa và giải mã dữ liệu viđeo

Tác giả: Karczewicz Marta (US), Wang

Xianglin (US), Chien Wei-Jung (CN).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến phương pháp và

thiết bị mã hoá và giải mã dữ liệu viđeo. Với

khối dữ liệu viđeo, bộ mã hoá viđeo có thể

báo hiệu cho bộ giải mã viđeo, bằng cách sử

dụng quy trình mã hoá số học nhị phân thích

ứng ngữ cảnh (CABAC - Context Adaptive

Binary Arithmetic Coding), chế độ dự báo nội

cấu trúc đã chọn bằng cách sử dụng từ mã

được ánh xạ sang chỉ số chế độ dự báo nội

cấu trúc sửa đổi. Bộ giải mã viđeo có thể thực

hiện quy trình mã hoá số học nhị phân thích

ứng ngữ cảnh (CABAC) để xác định từ mã

được báo hiệu bởi bộ mã hoá viđeo, xác định

chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc sửa đổi

tương ứng với từ mã này, xác định các chế độ

xác suất cao nhất dựa vào ngữ cảnh, ánh xạ

chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc sửa đổi sang

chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc bằng cách

so sánh chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc sửa

đổi với chỉ số chế độ của các chế độ xác suất

cao nhất, và xác định chế độ dự báo nội cấu

trúc được chọn dùng để mã hoá khối dữ liệu

viđeo dựa vào chỉ số chế độ dự báo nội cấu

trúc.

34

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016425 Thiết bị in, phương pháp thay đổi bố cục của trang lôgic và phương tiện lưu trữ

Tác giả: Naoto Yamada (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề xuất thiết bị in và phương

pháp thay đổi bố cục của trang lôgic, theo đó

các trang lôgic sẽ được bố trí lên trang vật lý

tuỳ theo thiết đặt điều kiện in nhiều trang. Khi

người dùng kéo trang lôgic nào đó, bố cục

của các trang lôgic sẽ được thay đổi dựa trên

vùng mà trang lôgic này được kéo đến.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

35

1-0016427 Axit nucleic phân lập được mã hoá kháng thể kháng yếu tố D, tế bào chủ, vật truyền chứa axit nucleic này và phương pháp tạo ra

kháng thể kháng yếu tố D

Tác giả: Wu Herren (US), Singh

Sanjaya (US), Fung Sek Chung (US),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập tới axit nucleic phân

lập được mã hóa kháng thể kháng yếu tố D

hoặc đoạn gắn kết với yếu tố D của chúng, tế

bào chủ, vật truyền, phương pháp tạo ra

kháng thể kháng yếu tố D hoặc đoạn gắn kết

với yếu tố D của chúng và phương pháp tạo

ra miền thay đổi của kháng thể kháng yếu tố

D này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016440 Nhiên liệu rắn

Tác giả: Kiyama Michihiro (JP),

Yamamoto Masayuki (JP)

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến nhiên liệu rắn sử

dụng gỗ phế liệu, giấy đã qua sử dụng, chất

kết dính, chất định hình và chất làm tăng năng

suất tỏa nhiệt theo cách hài hòa, có năng suất

tỏa nhiệt ổn định, và ngăn chặn sự tạo thành

cacbon dioxit.

Nhiên liệu rắn được tạo thành từ hỗn

hợp bao gồm gỗ vụn có kích thước nằm trong

khoảng từ 1 đến 50mm, giấy vụn có kích

thước nằm trong khoảng từ 1 đến 50mm, chất

kết dính, chất định hình và chất làm tăng năng

suất tỏa nhiệt, trong đó hỗn hợp này bao gỗ

vụn và giấy vụn/mảnh sợi tự nhiên với tổng

lượng nằm trong khoảng từ 15 đến 45 phần

trọng lượng và chất kết dính, chất định hình

và chất làm tăng năng suất tỏa nhiệt với tổng

lượng 55 đến 85 phần trọng lượng, có tỷ lệ

trọng lượng của gỗ vụn với giấy vụn nằm

trong khoảng từ 20:80 đến 80:20, và được ép

khuôn.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016456 Chế phẩm nhựa epoxy lỏng và chất kết dính chứa chế phẩm này

Tác giả: Taniguchi Masa (JP), Watanabe

Yuichi (JP), Kikuchi Hideki (JP), Matsumura

Yasuo (JP).

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề xuất chế phẩm nhựa epoxy

lỏng chứa ít nhất nhựa epoxy và chất đóng

rắn. Trong chế phẩm nhựa epoxy lỏng này,

lực kết dính (A) sau khi chế phẩm đóng rắn

trong 60 giây ở 1500C và lực kết dính (B) sau

khi đóng rắn chế phẩm trong 1 giờ ở 1500C

thỏa mãn mối tương quan : 0,6B<A. Tốt hơn,

sáng chế cũng đề xuất chất kết dính chứa chế

phẩm nhựa epoxy lỏng, trong đó lực kết dính

(A) sau khi đóng rắn chế phẩm trong 60 giây

ở 1500C và lực kết dính (B) sau khi đóng rắn

chế phẩm trong 1 giờ ở 1500C thỏa mãn mối

tương quan: 0,6B<A.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

36

1-0016464 Máy và phương pháp dán nhãn vật chứa

Tác giả: Minganti Gianni (IT).

Quốc gia: Ý

Sáng chế đề cập đến máy và phương

pháp dán nhãn vật chứa, trong đó máy dán

nhãn vật chứa (100) bao gồm các phương tiện

vận chuyển thứ nhất (2) để đặt ít nhất một vật

chứa (100) kế tiếp nhau tại vị trí dán nhãn,

các phương tiện vận chuyển thứ hai (3) để đặt

nhãn co do nhiệt dạng vòng (200) dưới ít nhất

một vật chứa (100) tại vị trí dán nhãn, các

phương tiện nâng (50, 52) nâng nhãn (200) để

dán nhãn từ phía dưới lên trên vật chứa (100)

tại vị trí dán nhãn, và các phương tiện phân

tán (51, 53) để phủ lên nhãn (200) chất lỏng

nóng; các phương tiện phân tán (51, 53)

không bị cản trở bởi các phương tiện vận

chuyển thứ hai (3) như đứng yên đối với các

nhãn (200) tịnh tiến, khởi động bởi các

phương tiện vận chuyển thứ hai (3), và được

định hình như để thực hiện sự co do nhiệt tại

ít nhất một phần trên nhãn (200) được dán

vào ít nhất một vật chứa (100) tại vị trí dán

nhãn, trong đó phần này được kéo dài qua

toàn bộ phần mở rộng dọc trục của nhãn

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016466 Kẹp dùng làm dụng cụ kẹp hồ sơ

Tác giả: Shimada Hiroshi (JP), Toda

Naotoshi (JP), Yatabe Tomohiro (JP).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề xuất kẹp dùng làm dụng cụ

kẹp hồ sơ để kẹp các tờ rời có các lỗ kẹp

thẳng hàng ở giữa, bao gồm thanh khoá tương

ứng với bìa trước trong đó hai bìa trước được

tạo ra từ các tấm phẳng một cạnh của mỗi tấm

này nối với và được làm liền với bìa gáy và

được làm liền khối, trong đó bìa gáy bao gồm

các phần khoá hình chìa khoá đứng thẳng trên

mặt trước của nó, phần khoá hình chìa khoá

xuyên qua các lỗ kẹp trên tờ rời, các phần

thanh nối được tạo ra trên thanh khoá ở các vị

trí tương ứng với các vị trí của phần khoá

hình chìa khoá, và các tờ rời được giữ giữa

thanh khoá và bìa trước bởi mỗi phần thanh

nối được khoá với phần khoá hình chìa khoá.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016470 Hệ thống làm sạch dùng để làm sạch đường ống

Tác giả: Soh Beng Kiat (SG), Ho Yuen

Liung Martinn (SG)

Quốc gia: Singapo

Sáng chế đề xuất hệ thống làm sạch

dùng để làm sạch đường ống được sử dụng để

dẫn chất lỏng qua đó, đường ống được nối

giữa ống dẫn vào và ống dẫn ra, hệ thống làm

37

sạch bao gồm: hốc chứa; vách ngăn có lỗ

được bố trí trong hốc chứa và chia hốc chứa

thành ngăn thứ nhất và ngăn thứ hai, ít nhất

một phần tử làm sạch được bố trí trong ngăn

thứ hai của hốc chứa, trong đó các lỗ của

vách ngăn có lỗ có kích thước cho phép chất

lỏng, mà không có phần tử làm sạch đi qua

vách ngăn có lỗ; ống dẫn cấp chất lỏng được

nối với ngăn thứ nhất của hốc chứa để thiết

lập việc nối thông chất lỏng giữa ống dẫn vào

và ngăn thứ nhất của hốc chứa; ống dẫn cấp

phần tử làm sạch với van định hướng được bố

trí trong đó, ống dẫn cấp phần tử làm sạch

được nối với ngăn thứ hai của hốc chứa để

thiết lập việc nối thông chất lỏng giữa ngăn

thứ hai của hốc chứa và ống dẫn vào, trong đó

ống dẫn cấp chất lỏng và ống dẫn cấp phần tử

làm sạch tạo thành một phần của vòng cấp

chất lỏng để cấp phần tử làm sạch từ ngăn thứ

hai của hốc chứa vào trong đường ống qua

ống dẫn vào; ống dẫn phần tử làm sạch trở về

với van định hướng được bố trí trong đó, ống

dẫn phần tử làm sạch trở về được nối với

ngăn thứ hai của hốc chứa để thiết lập việc

nối thông chất lỏng giữa ống dẫn ra và ngăn

thứ hai của hốc chứa, ống dẫn chất lỏng trở

về được nối với ngăn thứ nhất của hốc chứa

để thiết lập việc nối thông chất lỏng giữa

ngăn thứ nhất của hốc chứa và ống dẫn ra,

trong đó ống dẫn phần tử làm sạch trở về và

ống dẫn chất lỏng trở về tạo thành một phần

của vòng đưa chất lỏng về để đưa trở về phần

tử làm sạch từ đường ống qua ống dẫn ra vào

trong ngăn thứ hai của hốc chứa; và tổ hợp

van có thể hoạt động để mở/đóng vòng cấp

chất lỏng và có thể hoạt động để mở/đóng

vòng đưa chất lỏng về.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016475 Phương pháp sản xuất ure, thiết bị sản xuất ure và phương pháp làm giảm sự phát thải amoniac trong tháp tạo hạt của thiết bị

sản xuất ure hiện hành

Tác giả: Mennen Johannes Henricus

(NL).

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến phương pháp sản

xuất ure và thiết bị sản xuất ure trong đó sự

phát thải amoniac trong bước cuối tạo ra các

hạt ure được giảm đi. Trong phương pháp

này, việc cô đặc dung dịch ure được thực hiện

trong ít nhất ba bước cô đặc liên tiếp và thời

gian cư trú của ure nóng chảy mà ra khỏi thiết

bị cô đặc cuối đến tháp tạo hạt được giảm đến

mức tối thiểu. Điều này có thể đạt được bằng

cách bố trí thiết bị cô đặc cuối gần kề với cửa

nạp ure nóng chảy của tháp tạo hạt, chẳng

hạn, ở trên tháp tạo hạt. Theo cách này, sự

phát thải amoniac trong tháp tạo hạt có thể

được làm giảm đến 50% so với các thiết bị

sản xuất ure thông thường. Sáng chế còn đề

cập đến phương pháp làm giảm sự phát thải

amoniac trong tháp tạo hạt của thiết bị sản

xuất ure hiện hành.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

38

1-0016476 Hợp chất heteroarylbenzamit chứa nhóm thế haloalkyl và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Rossignol Jean-Francois (US),

Semple J. Edward (US).

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề xuất chất

heteroarylbenzamit chứa nhóm thế haloalkyl

có công thức I dưới đây. Hợp chất theo sáng

chế thể hiện hoạt tính mạnh kháng virut gây

bệnh viêm gan.

Trong đó các biến có ý nghĩa như được

nêu trong phần mô tả.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016479 Thiết bị cảnh báo xe đang đến gần dùng cho xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai bên

Tác giả: Satoru Shimizu (JP), Masahiro

Akiba (JP), Ryuji Akiba (JP), Kazuhiko

Tanaka (JP).

Quốc gia: Nhật

Mục đích của sáng chế là đề xuất thiết

bị cảnh báo xe đang đến gần dùng cho xe

chạy điện kiểu ngồi để chân hai bên được

trang bị bộ phát âm thanh lắp trên thân xe của

xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai bên có

động cơ điện trong động cơ phát động, và

phát ra âm thanh cảnh báo cho vùng xung

quanh nhằm thông báo cho vùng xung quanh

về việc xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai

bên đang đến gần, sao cho âm thanh phát ra

của bộ phát âm thanh được điều khiển, và bộ

phát âm thanh được bố trí sao cho chiều mà

âm thanh phát ra được hướng chéo xuống

dưới và về phía trước xe chạy điện kiểu ngồi

để chân hai bên.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016483 Bộ panen, panen hỗn hợp và panen vách

Tác giả: Kralic John Frank (AU), Ryan

Brad Stewart (AU)

Quốc gia: Úc

Sáng chế đề cập đến bộ panen (10). Bộ

panen (10) được tạo ra từ vật liệu dạng tấm.

Bộ panen (10) có các cơ cấu mở rộng theo

chiều dài cố định mà tạo ra một hoặc nhiều

đặc tính cơ bản của bộ panen (10) và ít nhất

một cơ cấu thay đổi được theo chiều dọc. Các

cơ cấu thay đổi được theo chiều dọc được bố

trí để thay đổi từ panen này sang panen khác.

Điều này cho phép sự thay đổi kích thước

chiều rộng của bộ panen (10). Bộ panen theo

sáng chế còn bao gồm ít nhất một chi tiết mép

được định hình để tiếp nhận và/hoặc tạo ra

một phần của chi tiết cố định vách tường.

39

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016485 Phương pháp và thiết bị để điều khiển cảnh báo cho người sử dụng

Tác giả: Jari Kangas (FI), Mikko NurmI

(FI), Akos Vetek (HU),…

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập tới phương pháp, thiết

bị và vật ghi chương trình máy tính. Phương

pháp này bao gồm các bước: thực hiện phát

hiện thứ nhất của ít nhất một tín hiệu sinh học

từ ít nhất một người sử dụng; điều khiển thiết

bị đầu ra người sử dụng để khởi tạo cảnh báo

cho người sử dụng, sau khi thực hiện phát

hiện thứ nhất của ít nhất một tín hiệu sinh

học; thực hiện phát hiện thứ hai của ít nhất

một tín hiệu sinh học từ ít nhất một người sử

dụng, sau khi khởi tạo cảnh báo cho người sử

dụng; và xử lý phát hiện thứ nhất của ít nhất

một tín hiệu sinh học và phát hiện thứ hai của

ít nhất một tín hiệu sinh học để xác định xem

liệu một hoặc nhiều thay đổi trong ít nhất một

tín hiệu sinh học có vượt qua được sự kiểm

tra cần thiết hay không.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************

1-0016501 Vật kê dùng cho ván khuôn cốt thép

Tác giả: Kim Myung Hwan (KR), Park

Woon Yong (KR), Kim Yong Hoe (KR),…

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến vật kê dùng cho tấm

sàn cốt thép (A) được bố trí giữa ván khuôn và

giàn cốt thép. Vật kê này bao gồm hai thân vật

kê hình lục giác (10) được làm bằng nhựa tổng

hợp và đầu vật kê (20) được làm bằng thép.

Mỗi thân vật kê (10) được tạo kết cấu có lỗ bắt

bu lông hướng lên trên (11). Đầu vật kê (20)

được tạo kết cấu có mặt đầu (21) được uốn hẹp

vào theo chiều hướng lên trên dọc theo chiều

dài, và có gân tăng cứng (22) được uốn

nghiêng hướng ra ngoài tại phần dưới của mặt

đầu (21). Theo đó, dễ dàng thực hiện các thao

tác với lỗ bắt bu lông (11) của thân vật kê (10),

chẳng hạn lắp hệ thống ống dẫn điện và vật

liệu hoàn thiện trần giữ môi trường xung

quanh luôn gọn gàng và sạch sẽ, hơn nữa, đảm

bảo lực chôn và lực đỡ một cách đầy đủ với lỗ

bắt bu lông này.

40

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

347/2017

Trở về đầu trang

**************