Bộ, ngành
1. Chưa bãi bỏ ngay nhiều thủ tục hành chính về hộ tịch, nuôi con nuôi
2. DN gửi kiến nghị tới Thủ tướng về Quy định công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm
3. Sẽ thí điểm cấp thẻ an sinh xã hội điện tử tại địa phương có điều kiện thuận lợi
4. Áp dụng chụp ảnh chân dung chính chủ đối với thuê bao di động mới
5. Tăng chỉ số đổi mới sáng tạo ở Việt Nam: Tận dụng đòn bẩy của giáo dục và sở hữu trí tuệ
6. Kiểm soát chặt hoạt động nhập khẩu phế liệu
7. DN da giày khốn đốn vì quỹ đất xưởng
8. Khó triển khai BHXH bắt buộc với lao động là người nước ngoài
Địa phương
9. Không có chuyện làm lý lịch tư pháp siêu nhanh!
10. Khó dẹp lò giết mổ thủ công dù đã "quyết tâm" hơn 10 năm
1. Chưa bãi bỏ ngay nhiều thủ tục hành chính về hộ tịch, nuôi con nuôi
Theo Bộ Tư pháp, để có thể đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính
theo Nghị quyết 58/NQ-CP của Chính phủ phải hoàn thành việc xây
dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (theo quy định của Luật hộ
tịch dự kiến chậm nhất đến ngày 1/1/2020).
Việc bãi bỏ nhiều thủ tục hành chính liên quan đến các lịnh vực vực lý
lịch tư pháp, hộ tịch, nuôi con nuôi, thi hành án dân sự, bồi thường nhà
nước,... theo Nghị quyết số 58/NQ-CP của Chính phủ (có hiệu lực từ
4/7/2017) sẽ tạo nhiều thuận lợi cho người dân.
Tuy nhiên, trong cuộc họp báo công tác tư pháp quý II năm 2017 mới
đây của Bộ Tư pháp, đại diện Bộ Tư pháp cho biết, hiện nay, Bộ Tư
pháp đang xây dựng kế hoạch để triển khai Nghị quyết này.
Người dân đến giao dịch tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cửa
liên thông hiện đại thành phố Vĩnh Long. Ảnh: Phạm Minh Tuấn/TTXVN
Để thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Nghị quyết,
trước hết phải hoàn thành việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư (theo quy định của Luật hộ tịch dự kiến chậm nhất đến ngày
1/1/2020). Đồng thời sửa đổi các quy định thủ tục hành chính trong các
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Nghị quyết số 58/NQ-CP có hiệu lực từ ngày 4/7/2017 của Chính phủ về
việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến
quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư
pháp.
Nghị quyết đã thông qua phương án đơn giản hóa đối với 109 thủ tục
hành chính thuộc 15 lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Trong
đó, nhiều thủ tục về lĩnh vực tư pháp, nuôi con nuôi, hộ tịch, quốc tịch,
bồi thường nhà nước... được đơn giản hóa hoặc bãi bỏ.
Cụ thể, bãi bỏ 2 thủ tục “Thông báo có quốc tịch nước ngoài” và thủ tục
“Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân”. Sửa đổi, bổ sung theo hướng
đơn giản hóa về thành phần hồ sơ và mẫu đơn, tờ khai đối với 107 thủ
tục hành chính trên cơ sở khai thác, sử dụng 15 trường thông tin cơ bản
về công dân tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nhằm giảm bớt giấy
tờ, các thông tin công dân phải cung cấp cho cơ quan giải quyết thủ tục
hành chính.
Theo đó, công dân khi đăng ký khai sinh cho con, cha mẹ của trẻ không
cần xuất trình đăng ký kết hôn (trường hợp cha, mẹ trẻ có đăng ký kết
hôn). Khi đăng ký kết hôn không cần xuất trình giấy tờ chứng minh nơi
cư trú.
Người xin nhập quốc tịch Việt Nam không cần xuất trình hoặc nộp các
giấy tờ như: giấy tờ tùy thân của người liên quan đến người xin nhập
quốc tịch (cha, mẹ hoặc người giám hộ trong trường hợp người đó dưới
18 tuổi); giấy chứng nhận kết hôn; giấy chứng minh nơi cư trú của cha,
mẹ hoặc người giám hộ,...
Đề thực hiện Nghị quyết trên, Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì,
phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan nghiên cứu sửa đổi, bổ sung,
thay thế hoặc bãi bỏ thủ tục hành chính, giấy tờ công dân quy định tại 3
luật, 6 nghị định, 3 thông tư liên tịch và 20 thông tư để ban hành theo
thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành theo lộ trình phù
hợp với thời điểm Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được hoàn thành và
đưa vào vận hành.
Theo baotintuc.vn
2. DN gửi kiến nghị tới Thủ tướng về Quy định công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm
Một bức thư kiến nghị từ đại diện cộng đồng doanh nghiệp ngành
chế biến thực phẩm đã được gửi tới Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc. Đứng đơn là một số hiệp hội doanh nghiệp trong nước
và nước ngoài, đề nghị bãi bỏ quy định công bố phù hợp quy định
an toàn thực phẩm.
Họ đã không thể kiên nhẫn hơn khi sau rất nhiều văn bản kiến nghị gửi
tới các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, phản ánh quy định được
xác định là bất cập, không phù hợp với luật định và cả thông lệ quốc tế
nói trên của Nghị định 38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật An toàn thực phẩm vẫn tồn tại. Họ càng lo khi chưa thấy
những thay đổi đáng kể về vấn đề này tại Dự thảo Nghị định sửa đổi
Nghị định 38/2012/NĐ-CP đã được Bộ Y tế trình Chính phủ.
Về cơ sở pháp lý, nội dung này không có trong Luật An toàn thực phẩm
năm 2010 cũng như Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006.
Như vậy, việc xuất hiện quy định này sẽ kéo theo các thủ tục hành chính
liên quan rơi vào tình thế phi chuẩn mực, dẫn đến sự không minh bạch,
phức tạp, rườm rà, kéo dài.
Các doanh nghiệp tính toán, nhiều khi họ phải mất tới 3-6 tháng để xin
được Giấy xác nhận phù hợp quy định an toàn thực phẩm. Có nghĩa,
doanh nghiệp phải chờ bằng đó thời gian mới được bán hàng ra thị
trường - khoảng thời gian quá lâu trong bối cảnh kinh doanh hiện tại.
Nhiều doanh nghiệp khóc dở khi các đối tác không thể chờ đợi được, đã
chuyển sang mua hàng của nhà cung cấp khác, gây ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp...
Phí tổn này không thể tính hết. Nhưng nếu tính phí cấp giấy này, thì
trong 4 năm hiệu lực của Nghị định 38/2012/NĐ-CP, cộng đồng doanh
nghiệp chế biến thực phẩm đã tốn kém cả ngàn tỷ đồng (chưa kể phí
phân tích mẫu). Và chưa thể ước lượng được sẽ có bao nhiêu doanh
nghiệp trong ngành không đủ sức vượt qua trở ngại trên, buộc phải thay
đổi kế hoạch kinh doanh, thậm chí có thể có tên trong danh sách các
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động hay giải thể.
Hiện tại, thị trường đã quen với sự gia tăng hay rút lui của các doanh
nghiệp. Thậm chí, tỷ lệ doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trên số
doanh nghiệp gia nhập trong 6 tháng đầu năm 2017 là 56,6% cũng
không gây sốc như trước. Lý do là nhu cầu doanh nghiệp rút lui do năng
lực cạnh tranh kém, do chuyển đổi kinh doanh, cơ cấu lại... đã được
nhìn nhận là đúng quy luật.
Song sẽ bất thường khi những doanh nghiệp buộc phải ra đi do các điều
kiện kinh doanh không còn phù hợp, sai lệch về bản chất quản lý nhà
nước trong nền kinh tế thị trường.
Phải nói lại rằng, than phiền về quy định công bố phù hợp quy định an
toàn thực phẩm không mới và không chỉ từ phía cộng đồng kinh doanh.
Các bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học và Công nghệ
từng kiến nghị điều chỉnh quy định này khi sửa đổi Nghị định
38/2012/NĐ-CP. Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường, trong Hội
nghị đối thoại giữa Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam
(VASEP) và các bộ, ngành do Phó thủ tướng Vũ Đức Đam chủ trì hồi
tháng 5/2017, cũng đồng quan điểm trên. Các đề xuất cách thức kiểm
soát khác có hiệu quả hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế hơn cũng đã
được bàn tới.
Vậy nhưng, đến giờ, yêu cầu làm đúng luật, theo tinh thần cải thiện môi
trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, phù hợp với
thông lệ chung của thế giới mà doanh nghiệp đưa ra vẫn chưa có câu
trả lời. Chính vì vậy, doanh nghiệp lại phải trông chờ vào Thủ tướng
Chính phú.
Theo baodautu.vn
3. Sẽ thí điểm cấp thẻ an sinh xã hội điện tử tại địa phương có điều kiện thuận lợi
Trong giai đoạn 2017 - 2018, những tỉnh, thành phố có điều kiện
kinh tế xã hội thuận lợi, sẽ đăng ký và thống nhất với Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) về kế hoạch thí điểm cấp số và
thẻ an sinh xã hội điện tử.
Đề án xây dựng CSDL quốc gia về an sinh xã hội, ứng dụng CNTT vào
giải quyết chính sách an sinh xã hội đến năm 2020, định hướng phát
triển đến 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 25/5/2017 tại
Quyết định 708 (Ảnh minh họa. Nguồn: Internet)
Bộ LĐTB&XH vừa có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Sở, ngành trưc thuộc triển khai
thực hiện Đề án “Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về an sinh xã
hội, ứng dụng CNTT vào giải quyết chính sách an sinh xã hội đến năm
2020 và định hướng phát triển đến năm 2030”.
Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 708 ngày
25/5/2017, Đề án “Xây dựng CSDL quốc gia về an sinh xã hội, ứng dụng
CNTT vào giải quyết chính sách an sinh xã hội đến năm 2020 và định
hướng phát triển đến năm 2030” (gọi tắt là Đề án 708) hướng tới mục
tiêu triển khai ứng dụng CNTT vào giải quyết chính sách an sinh xã hội
cho người dân, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân; nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đổi mới về tổ chức và đẩy
mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực an sinh xã hội,
góp phần phát triển Chính phủ điện tử.
Trong công văn mới gửi các UBND tỉnh, thành phố, Bộ LĐTB&XH đề nghị
Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở LĐTB&XH phối hợp với
Sở Tài chính, Sở TT&TT, BHXH và các cơ quan chuyên môn có liên quan
tại địa phương xây dựng, trình lãnh đạo UBND tỉnh, thành phố phê duyệt
kế hoạch tổng thể thực hiện Đề án, trong đó ưu tiên một số nhiệm vụ.
Cụ thể, các địa phương cần tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của các cấp, ngành và người dân về vai trò, tác dụng của số an sinh xã
hội, thẻ an sinh xã hội điện tử và CSDL quốc gia về an sinh xã hội.
CSDL quốc gia về an sinh xã hội bao gồm thông tin cơ bản về công dân
Việt Nam là đối tượng của các chính sách: trợ giúp xã hội, giảm nghèo,
người có công với cách mạng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo
hiểm thất nghiệp. Định hướng đến năm 2030, mở rộng CSDL quốc gia
về an sinh xã hội bao gồm trẻ em, dạy nghề, việc làm, bình đẳng giới,
phòng chống tệ nạn xã hội và các lĩnh vực khác của an sinh xã hội theo
quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, các địa phương cũng được ưu tiên triển khai ứng dụng
CNTT trong giải quyết chính sách an sinh xã hội, quản lý và cập nhật
CSDL quốc gia về an sinh xã hội.
Cụ thể, với những tỉnh, thành phố có điều kiện về kinh tế - xã hội thuận
lợi, xây dựng, triển khai phần mềm ứng dụng CNTT trong giải quyết
chính sách an sinh xã hội, quản lý, cập nhật CSDL quốc gia về an sinh
xã hội; bảo đảm kết nối với số và thẻ an sinh xã hội điện tử chung cả
nước; ban hành quy chế tạm thời về cập nhật, quản lý, vận hành và truy
cập CSDL quốc gia về an sinh xã hội, bảo đảm kết nối liên thông, tích
hợp và chia sẻ dữ liệu với các CSDL của các bộ, ngành, địa phương liên
quan.
Cập nhật CSDL quốc gia về an sinh xã hội gồm các thông tin về đối
tượng và chính sách trợ giúp xã hội theo quy định tại Nghị định 136 ngày
21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với
đối tượng bảo trợ xã hội và các văn bản pháp luật có liên quan; các
thông tin về đối tượng và chính sách giảm nghèo theo quy định tại Quyết
định 59 ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 và các
văn bản pháp luật liên quan; thông tin về đối tượng và chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng được quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người
có công với cách mạng và các văn bản pháp luật có liên quan; và thông
tin về đối tượng và chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại
Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn Luật.
Bộ LĐTB&XH cũng đề nghị tích hợp vào CSDL quốc gia về an sinh xã
hội các thông tin định danh công dân, thông tin về đối tượng và chính
sách BHXH cùng các thông tin về đối tượng và chính sách bảo hiểm y
tế; xây dựng hệ thống chỉ tiêu, chỉ số đầu vào, đầu ra, bảo đảm các
CSDL thành phần cập nhật, quản lý, tích hợp và trao đổi CSDL an sinh
xã hội.
Đặc biệt, theo hướng dẫn của Bộ LĐTB&XH, giai đoạn 2017 - 2018, đối
với những tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi, đăng ký
và thống nhất với Bộ LĐTB&XH về kế hoạch thí điểm cấp số và thẻ an
sinh xã hội điện tử; bảo đảm cấp số và thẻ an sinh xã hội điện tử cho
công dân Việt Nam là đối tượng của an sinh xã hội giai đoạn 2019 -
2020.
Ngoài ra, các địa phương cũng được đề nghị trong kế hoạch tổng thể
thực hiện Đề án 708, cần ưu tiên một số nhiệm vụ khác như: Xây dựng
Cổng thông tin điện tử An sinh xã hội trên địa bàn tỉnh để thực hiện giải
quyết các chính sách an sinh xã hội cho người dân; cung cấp thông tin
về chính sách, đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội; tích hợp
cung cấp dịch vụ công trực tuyến và kết nối hệ thống thông tin thống kê
về an sinh xã hội của các bộ, ngành, địa phương.
Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hạ tầng kỹ thuật nhằm
tăng cường ứng dụng CNTT trong việc giải quyết chi trả chính sách, xây
dựng CSDL; lựa chọn đơn vị cung cấp dịch vụ công bảo đảm chi trả
theo yêu cầu, thực hiện cơ chế thu hồi vốn đầu tư thông qua thu phí
cung cấp dịch vụ chi trả chính sách; hướng dẫn, hỗ trợ người dân tự
đăng ký và nhập liệu các trường thông tin cá nhân vào CSDL quốc gia
về an sinh xã hội.
Đồng thời, đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ,
viên chức, nhân viên trong việc ứng dụng, khai thác hệ thống thông tin
và CSDL về an sinh xã hội; Tăng cường giám sát, đánh giá việc thực
hiện xây dựng CSDL quốc gia về an sinh xã hội của các cấp, các ngành.
Theo hướng dẫn của Bộ LĐTB&XH, kinh phí thực hiện Đề án 708 được
bảo đảm từ nguồn vốn doanh nghiệp, chi phí dịch vụ chi trả các chính
sách an sinh xã hội, nguồn vốn ngân sách nhà nước được bố trí trong
dự toán chi thường xuyên hàng năm theo phân công của Luật ngân
sách nhà nước, nguồn huy động, tài trợ, đóng góp của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác theo quy định
của pháp luật.
Các địa phương được đề nghị gửi kế hoạch tổng thể thực hiện Đề án
708 về Cục Bảo trợ Xã hội, Bộ LĐTB&XH trước ngày 31/7/2017.
Theo ictnews.vn
4. Áp dụng chụp ảnh chân dung chính chủ đối với thuê bao di động mới
Các thuê bao đăng ký mới cần phải chụp ảnh chân dung, Các thuê bao
cũ, thuê bao hiện hành không cần phải chụp ảnh chân dung để bổ sung,
trừ các trường hợp bị phát hiện kê khai thông tin cá nhân không chính
xác...
Nghị định số 49/2017/NĐ-CP về quản lý thuê bao di động chính thức có
hiệu lực từ ngày mai, 24/7. Vì vậy, các nhà mạng đã bắt đầu triển khai
để thực hiện quản lý thuê bao trả trước theo các quy định mới.
Theo lãnh đạo Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và Theo dõi thi
hành pháp luật (Bộ Tư pháp), trong thời gian qua, Bộ Thông tin & Truyền
thông đã thông tin về một số nội dung được hiểu chưa đúng về Nghị
định 49. Cụ thể, không bắt buộc tất cả thuê bao di động đã đăng ký
thông tin cá nhân phải bổ sung ảnh chân dung.
Theo đó, có 2 nhóm khách hàng phải bổ sung ảnh chân dung. Cụ thể,
các thuê bao đăng ký mới cần phải chụp ảnh chân dung khi đến các
điểm giao dịch, cửa hàng của nhà mạng làm thủ tục đăng ký sử dụng
dịch vụ. Các thuê bao cũ, thuê bao hiện hành không cần phải chụp ảnh
chân dung để bổ sung, trừ các trường hợp bị phát hiện kê khai thông tin
cá nhân không chính xác, phải kê khai lại, đồng thời cũng bổ sung luôn
ảnh chụp chân dung.
Cũng theo lãnh đạo Cục Quản lý vi phạm hành chính và Theo dõi thi
hành luật, trước mắt vẫn tiếp tục thực hiện quy định các thuê bao di
động phải có ảnh chân dung cho nhà mạng theo Nghị định 49. Lý do để
đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước cũng như đảm bảo quản lý
xã hội và đảm bảo chính lợi ích của chủ thuê bao.
Theo Nghị định số 49/2017 sửa đổi, bổ sung Điều 15 của Nghị định số
25/2011, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật viễn thông, với thuê
bao di động có thông tin thuê bao không đúng quy định, nhà mạng phải
thông báo liên tục trong ít nhất 5 ngày, mỗi ngày ít nhất một lần yêu cầu
cá nhân, tổ chức thực hiện lại việc giao kết hợp đồng theo mẫu.
Một trong những điểm bổ sung được chú ý nhất của Nghị định 49, ngoài
thông tin về giấy tờ tùy thân, thuê bao cần phải bổ sung cả ảnh chụp
chân dung chính chủ. Nhà mạng sẽ phải thực hiện lấy những thông tin
này đối với các thuê bao đăng ký mới sau ngày 24/4/2017. Với các thuê
bao đã kích hoạt trước ngày 24/4/2017, nhà mạng có 12 tháng để bổ
sung thông tin theo quy định mới.
Các nhà mạng hiện đã có thông báo và đang triển khai việc chụp ảnh
người trực tiếp đến giao dịch và ký kết hợp đồng. Trường hợp cá nhân,
tổ chức không thực hiện theo yêu cầu, sẽ tạm dừng cung cấp dịch vụ
viễn thông một chiều sau 15 ngày và tạm dừng cung cấp dịch vụ viễn
thông hai chiều sau 15 ngày tiếp theo nếu không thực hiện.
Nghị định cũng quy định rõ, doanh nghiệp viễn thông có 12 tháng để
chuẩn hóa toàn bộ dữ liệu thuê bao, trước khi phải chịu phạt tiền nếu bị
phát hiện thông tin thuê bao sai lệch.
Như vậy, ngay từ khi Nghị định 49 của Chính phủ có hiệu lực, các nhà
mạng này đã sẵn sàng triển khai hạ tầng và nhân lực để đáp ứng đúng
quy định. Trong đó, đã có nhiều nhà mạng đã bắt đầu triển khai việc
chụp ảnh đối với người dùng đến đăng kí thuê bao di động mới.
Trước đó, tại buổi sơ kết 6 tháng đầu năm của Bộ TT&TT, lãnh đạo Bộ
cũng cho biết, từ quý III/2017, các Sở Thông tin & Truyền thông trên
toàn quốc sẽ tiến hành thanh tra diện rộng về công tác quản lý thuê bao
di động trả trước nhằm siết chặt và đẩy lùi nạn tin nhắn rác, tin nhắn
spam...
Theo tổng cục thống kê, tính đến hết 6 tháng đầu năm 2017, tổng số
thuê bao điện thoại ước tính đạt 126,5 triệu thuê bao, giảm 5,3% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó số thuê bao di động đạt 119,4 triệu thuê
bao, giảm 6,2%. Lý do cho việc giảm thuê bao di động theo Tổng Cục
thống kê đó là do các nhà mạng thực hiện thu hồi sim rác theo quy định
của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Lãnh đạo Bộ TT&TT cũng cho biết, việc quản lý sim rác, tin nhắn rác đã
có sự chuyển biến mạnh mẽ sau nhiều năm, đây là vấn nạn của xã hội.
Hiện đã có gần 24 triệu Sim rác đã bị xử lý trong thời gian qua được dư
luận xã hội đồng tình về vấn đề này là bằng chứng cụ thể nhất cho
những nỗ lực của Bộ, của doanh nghiệp thuộc ngành TT&TT trong quyết
tâm làm lành mạnh hóa thị trường viễn thông của Việt Nam.
Theo congly.vn
5. Tăng chỉ số đổi mới sáng tạo ở Việt Nam: Tận dụng đòn bẩy của giáo dục và sở hữu trí tuệ
Trong các chỉ số cần tiếp tục cải thiện như thể chế, chất lượng
nguồn nhân lực... để tăng hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu
(GII) những năm tiếp theo, các chuyên gia sở hữu trí tuệ thế giới
đặc biệt lưu ý Việt Nam tận dụng đòn bẩy của giáo dục và sở hữu
trí tuệ.
Đầu tư cải thiện chỉ số GII hiệu quả cao
Việc Việt Nam tăng hạng chỉ số đổi mới sáng tạo 12 bậc so với năm
2016 khiến giới chuyên môn quốc tế rất ngạc nhiên bởi Việt Nam được
xếp vào nước có thu nhập trung bình thấp. Ông Sacha Wunsch Vincent -
chuyên gia cao cấp của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) - bày tỏ,
trong các ấn bản gần nhất của GII, Việt Nam nổi lên như một quốc gia
có hiệu quả về đổi mới sáng tạo (ĐMST).
“Điều này có nghĩa Việt Nam đã làm tốt trong việc tạo ra tri thức mới và
ĐMST từ nguồn lực hiện có. Đây là một thành công lớn khi chúng tôi
xem xét 10 nước ĐMST hiệu quả, trong đó có Trung Quốc, Hà Lan,
Đức...” - ông Vincent nói.
Vị chuyên gia của WIPO cũng đặc biệt nhấn mạnh việc Việt Nam đầu tư
cho các chỉ số đầu vào với số tiền rất khiêm tốn, nhưng kết quả đầu ra
lại cao: “Kết quả tốt trong hầu hết các lĩnh vực, trong đó có 2 chỉ số
chính là tăng trưởng năng suất (đứng đầu thế giới) và xuất khẩu công
nghệ cao (duy trì vị trí thứ tư từ năm trước). Việc nhập khẩu công nghệ
cao tốt hơn và thu hút được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu”.
Nghiên cứu tại trung tâm R&D của Công ty cổ phần bóng đèn phích
nước Rạng Đông.
Ông Sacha Wunsch Vincent nhắc đến một điểm tiến bộ nữa của Việt
Nam trong thời gian qua là số đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và kiểu
dáng công nghiệp tăng trưởng tốt theo thời gian. Tuy nhiên, chuyên gia
này cũng chỉ ra vài chỉ số còn hạn chế như: Chỉ số về thể chế xếp hạng
87, chỉ số môi trường kinh doanh xếp thứ 113; chỉ số thuận lợi nộp thuế
xếp thứ 115; chỉ số chất lượng nguồn nhân lực và nghiên cứu xếp thứ
70; chỉ số các công ty R&D toàn cầu xếp thứ 43 và chỉ số xếp hạng QS
các trường đại học xếp thứ 75.
Thách thức chuyển nhân lực từ viện, trường sang sản xuất
Phân tích của giới chuyên môn cho thấy, dù đạt thứ hạng tốt, Việt Nam
vẫn đang ở ngã ba giữa vị trí người lắp ráp và vị trí người sáng tạo vượt
lên, cạnh tranh với các nước láng giềng. Các chỉ số đầu ra của Việt Nam
phần lớn bị ảnh hưởng bởi những vấn đề liên quan đến dòng vốn FDI.
Một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam có kết quả cực kỳ tốt
trong việc cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu là do xuất khẩu và
sản xuất công nghệ cao, nhưng phần lớn các hoạt động này lại bị cầm
trịch bởi doanh nghiệp nước ngoài như Honda, Toyota, Samsung...
Làm sao để các doanh nghiệp nội địa có thể đóng góp thêm vào các
hoạt động này trong thời gian tới? Một giải pháp được ông Sacha
Wunsch Vincent đề cập là chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao sang
khu vực sản xuất và sáng tạo chứ không chỉ tập trung ở khu vực viện,
trường; tăng cường liên kết giữa giáo dục, nghiên cứu với đổi mới sáng
tạo trong doanh nghiệp, tăng chất lượng và mối liên quan giữa nghiên
cứu với đào tạo nâng cao. Cùng với đó, Việt Nam cần tận dụng sức
mạnh của sở hữu trí tuệ, làm sao để chính sách về sở hữu trí tuệ phát
huy được tác dụng trong hệ thống chính sách về đổi mới quốc gia.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh cho biết: “Bộ KH&CN sẽ tiếp
tục đồng hành và hỗ trợ các bộ, cơ quan, địa phương với những hoạt
động cụ thể như xây dựng sổ tay hướng dẫn chi tiết về từng chỉ số GII;
tổ chức tập huấn, hướng dẫn chung cho các bộ, cơ quan và địa phương;
tổ chức các buổi làm việc, kiểm tra tiến độ thực hiện, hướng dẫn trực
tiếp tại một số bộ, ngành, địa phương; phối hợp với chuyên gia WIPO và
các tổ chức quốc tế để học hỏi về phương pháp và giải pháp cải thiện
chỉ số GII”.
5 giải pháp cải thiện chỉ số GII mà Bộ KH&CN đề xuất
Tiếp tục đẩy mạnh hiệu quả thực thi chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về
cải thiện thế chế, đặc biệt là Nghị quyết 01, Nghị quyết 19, Nghị quyết
35 của Chính phủ đến tất cả các bộ, ngành, địa phương.
Xây dựng, trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật mạnh; quan
tâm đầu tư, phát triển các trường đại học theo định hướng nâng cao
chất lượng, tăng hàm lượng nghiên cứu và hợp tác quốc tế, phát triển
các doanh nghiệp lớn có khả năng nghiên cứu và phát triển mạnh.
Tái cơ cấu các ngành nghề sản xuất, kinh doanh với định hướng nâng
cao hàm lượng nghiên cứu, phát triển và ĐMST, tạo ra nhiều việc làm
thâm dụng tri thức hơn.
Tiếp tục coi doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia, có
giải pháp nâng cao năng lực ĐMST và hấp thụ công nghệ của doanh
nghiệp. Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp, viện, trường đăng ký sáng
chế.
Có giải pháp tăng cường các sản phẩm của Việt Nam trên thị trường
công nghiệp văn hoá toàn cầu.
Theo khoahocphattrien.vn
6. Kiểm soát chặt hoạt động nhập khẩu phế liệu
Để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Việt Nam đã
đưa ra chủ trương cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu
(NKPL). Tuy nhiên, khi thực hiện đã có không ít tổ chức, cá nhân
không tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường (BVMT) khi
NKPL làm nguyên liệu sản xuất, nhất là lợi dụng NKPL để đưa rác
thải vào nước ta.
Việc NKPL nhằm bù đắp những mặt hàng, những nguyên vật liệu còn
thiếu mà trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất không đủ để
đáp ứng nhu cầu. Xuất phát từ quan điểm nêu trên, những năm qua Nhà
nước đã ban hành cơ chế, chính sách cho phép các doanh nghiệp NKPL
phục vụ sản xuất trong nước. Luật BVMT năm 2014 quy định chỉ được
phép NKPL làm nguyên liệu sản xuất và không được mua bán, kinh
doanh phế liệu nhập khẩu; đồng thời, phải ký quỹ bảo đảm đối với phế
liệu nhập khẩu. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
73/2014/QĐ-TTg quy định Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ
nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất, bao gồm 36 chủng loại phế liệu
được phép nhập khẩu, chia thành các nhóm như: thạch cao, sắt, thép,
nhựa, giấy, thủy tinh, tơ tằm, điện tử… Đây là căn cứ pháp lý cụ thể để
Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN và MT) tiếp tục xây dựng các quy định
về quản lý phế liệu nhập khẩu trong đó có hệ thống các Quy chuẩn kỹ
thuật về môi trường đối với phế liệu nhập khẩu…
Theo thống kê của Bộ TN và MT, trong hai năm 2011 và 2012, cả nước
có khoảng 400 doanh nghiệp NKPL làm nguyên liệu sản xuất, chủ yếu là
nhóm phế liệu sắt, thép (khoảng từ 2,2 triệu tấn đến 2,5 triệu tấn/năm);
phế liệu nhựa (khoảng 800 nghìn tấn/năm); phế liệu giấy (khoảng 700
nghìn tấn/năm). Tuy nhiên, đến giai đoạn 2013 - 2015, số lượng doanh
nghiệp NKPL giảm xuống còn từ 200 đến 250 doanh nghiệp, tập trung
vào nhóm phế liệu sắt (khoảng 2,5 triệu tấn/năm); phế liệu giấy, nhựa
(khoảng từ 1,2 đến 1,5 triệu tấn/năm) và tổng các phế liệu khác khoảng
1,1 triệu tấn/năm. Các địa phương có cơ sở NKPL lớn như: TP Hải
Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu… Nguồn phế liệu này
chủ yếu được nhập khẩu từ Mỹ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Xin-ga-po, Ca-
na-đa…
Đáng chú ý, bên cạnh một số đơn vị sử dụng phế liệu nhập khẩu thực
hiện tốt công tác BVMT như bố trí kho bãi dành riêng cho việc tập kết,
bảo đảm không để thất thoát phế liệu và không gây phát tán tạp chất đi
kèm ra môi trường chung quanh, thực hiện đăng ký chủ nguồn thải chất
thải nguy hại, ký hợp đồng xử lý chất thải nguy hại và chất thải kèm theo
trong quá trình NKPL; thực hiện giám sát môi trường định kỳ… thì còn
không ít tổ chức, cá nhân lợi dụng chính sách của Nhà nước về NKPL
để đưa các chất thải vào nước ta. Theo quy định của Luật BVMT, các
doanh nghiệp NKPL làm nguyên liệu sản xuất phải có kho bãi bảo đảm
đúng quy định. Nhưng thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp dù đã có
kho bãi riêng nhưng kho bãi được xây dựng không đúng quy định, không
có hệ thống thoát nước mưa và không có mái che cho nên chất thải vẫn
bị phát tán ra môi trường. Công tác kiểm soát ô nhiễm trong quá trình sử
dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất chưa tốt, vẫn có một số doanh
nghiệp để xảy ra sự cố môi trường, xả khí thải, bụi vượt quá quy chuẩn
cho phép, chuyển giao chất thải chưa đúng quy định. Trong quản lý chất
thải nguy hại, các doanh nghiệp kê khai, lưu giữ, làm hồ sơ rất sơ sài và
không đúng quy định, nhất là chưa thật sự đánh giá đúng hiện trạng môi
trường trong khu vực hoạt động của doanh nghiệp, đã ảnh hưởng xấu
đến môi trường và sức khỏe người dân trên địa bàn.
Trước thực trạng nêu trên, Bộ TN và MT, Bộ Công thương đã phối hợp
chặt chẽ với cơ quan hải quan, sở TN và MT các tỉnh, thành phố thường
xuyên theo dõi, cập nhật tình hình nhập khẩu, sử dụng phế liệu làm
nguyên liệu sản xuất; kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về
BVMT, phát hiện và xử lý đối với các trường hợp vi phạm. Đồng thời, tập
trung xử lý dứt điểm các công-ten-nơ phế liệu, rác thải không đáp ứng
yêu cầu về BVMT đang tồn đọng tại các cảng trên cả nước. Tuy nhiên,
để tăng cường kiểm soát hoạt động NKPL, máy móc, phương tiện, thiết
bị đã qua sử dụng, Bộ TN và MT cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
có liên quan, nhất là lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi
trường trong kiểm tra, giám sát việc NKPL làm nguyên liệu sản xuất.
Chấm dứt tình trạng NKPL làm nguyên liệu sản xuất, hoặc vận chuyển
chất thải qua biên giới không đúng quy định; thực hiện nghiêm các biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn việc đưa công nghệ, máy móc, phương
tiện, thiết bị cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường vào sử dụng… Cần tiếp
tục hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phế liệu được nhập
khẩu; xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành trong việc kiểm soát hoạt
động NKPL, tránh nguy cơ nước ta trở thành bãi thải công nghiệp của
thế giới.
Các chuyên gia lĩnh vực TN và MT cũng đề nghị: Bên cạnh việc hoàn
thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BVMT năm 2014, ngành TN
và MT cần tăng cường tập huấn, phổ biến quy định về quản lý và BVMT
đối với phế liệu nhập khẩu cho các đối tượng là cán bộ quản lý môi
trường của các bộ, ngành; cán bộ quản lý môi trường địa phương; cán
bộ chuyên trách về quản lý môi trường của các doanh nghiệp sản xuất,
hoặc NKPL. Đồng thời, Việt Nam cần phải thực thi đầy đủ các nội dung
của Công ước Basel về kiểm soát chất thải xuyên biên giới và việc tiêu
hủy chúng, mà nước ta là một bên tham gia Công ước này; đẩy mạnh
trao đổi thông tin và chủ động ngăn ngừa có hiệu quả việc vận chuyển
chất thải vào Việt Nam...
Theo nhandan.com.vn
7. DN da giày khốn đốn vì quỹ đất xưởng
Nhiều DN ngành sản xuất da giày đang gặp thách thức lớn về quỹ
đất dành riêng cho việc mở xưởng sản xuất. Địa phương nào cũng
ngại cấp phép cho các DN sản xuất da giày nên ngay cả một DN
chuyên sản xuất đế giày, ít gây ô nhiễm như Minh Diệu, tìm cả năm
nay cũng không tìm được đất mở xưởng để di dời cơ sở cũ ở quận
7.
Thực tế, KCN Hiệp Phước (Nhà Bè) được thành lập năm 2002 để phục
vụ các nhà máy, DN sản xuất các ngành hóa chất, vật liệu xây dựng,
thuộc da... ở nội thành di dời ra đây, nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường.
Nhưng tới năm 2011, TP thay đổi quy hoạch, chuyển toàn bộ KCN Hiệp
Phước thành khu công nghiệp, đô thị. Chính vì thế, các DN nằm trong
diện ô nhiễm mà chưa di dời ra đây sẽ không được cấp phép vào khu
công nghiệp này nữa.
Bên cạnh đó là sự bùng nổ các khu dân cư xung quanh KCN, khiến cho
việc sản xuất của các DN trong KCN không yên ổn. Cty Minh Diệu là một
ví dụ điển hình. Trước đây, khu quận 7 thưa dân, hạ tầng hầu như
không có gì đáng kể nên chúng tôi đã hoạt động tại đây hơn 10 năm
không gây ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, ba năm trở lại đây, nhiều dự án
chung cư, nhà phố được xây dựng tại đây kéo theo lượng dân lớn về
định cư. Khi dân đông, người ta sẽ kiến nghị việc di dời nhà máy vì sợ
ảnh hưởng tới ô nhiễm không khí, tiếng ồn. Chúng tôi chỉ là DN sản xuất
đế giày nên không gây ra ô nhiễm môi trường nhưng vì trước sau gì
cũng phải di dời theo quy định chuyển dịch của TP nên cả 1 năm qua,
chúng tôi đã đi khắp quận 7 để tìm mặt bằng mở xưởng sản xuất.
TP không cấp phép mới, nhưng đối với các DN đã tồn tại lâu rồi thì cũng
nên có chính sách hỗ trợ họ đầu tư hoàn thiện hệ thống xử lý môi
trường. Xem xét thành lập một cụm công nghiệp dành riêng cho các nhà
máy sản xuất gây ảnh hưởng nhiều đến môi trường như ngành may
mặc, giày da, dệt nhuộm để họ ổn định sản xuất là việc làm cần thiết.
Theo enternews.vn
8. Khó triển khai BHXH bắt buộc với lao động là người nước ngoài
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, việc thực hiện BHXH bắt
buộc với NLĐ nước ngoài là xu thế chung, nhưng lại không hề dễ
dàng.
Hiện nay, lao động nước ngoài làm việc tại VN đang tăng nhanh, từ
12.602 người (năm 2004) lên gần 84.000 người (năm 2016) - hầu hết là
NLĐ có trình độ, tay nghề cao, được cấp phép (lao động nữ chiếm
16,3%).
Theo Dự thảo Nghị định về BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân
nước ngoài làm việc tại Việt Nam, khi tham gia BHXH, NLĐ sẽ được
hưởng 5 chế độ (ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí và tử tuất). Cơ
quan soạn thảo cũng đề xuất phương án: Từ 1/1/2018, thực hiện 3 chế
độ (ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN); từ 1/1/2020 thực hiện chế độ dài hạn
(hưu trí, tử tuất).
Lao động nước ngoài làm việc tại VN đang tăng nhanh, từ 12.602
người (năm 2004) lên gần 84.000 người (năm 2016).
Góp ý về việc này, nhiều DN cho rằng, các chế độ ngắn hạn rất nhân
văn, bảo vệ quyền lợi cho NLĐ trước những rủi ro trong quá trình lao
động, nên việc triển khai từ 1/1/2018 hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên,
nhóm chế độ dài hạn lại chưa thực sự khả thi, vì sẽ có tình trạng đóng
BHXH 2 lần. Ngoài ra, khối lượng công việc gia tăng, trong khi hệ thống
quản lý chưa thực sự đáp ứng yêu cầu; việc phải sử dụng nhiều ngôn
ngữ khác nhau trong giao dịch sẽ khiến việc thực hiện chính sách gặp
khó khăn…
Chuyên gia nước ngoài làm việc tại Cty Xi măng Hạ Long (Quảng Ninh)
Để làm được điều này, ngoài quy định luật pháp của quốc gia (đã được
quy định trong Luật BHXH 2014) còn cần phải có những hiệp định song
phương về BHXH giữa VN và các nước có NLĐ đang làm việc tại VN để
quy đổi, thực hiện chính sách BHXH liên thông, tương đồng và bình
đẳng (VN hiện đang đàm phán với Đức và Hàn Quốc về vấn đề này).
Tuy nhiên, đây là vấn đề cần rất nhiều thời gian, công sức.
BHXH Hải Dương: 50% người dân tham gia BHXH vào 2020
Theo báo cáo của BHXH Hải Dương, đến nay có hơn 8.700 người tham
gia BHXH tự nguyện, và mục tiêu đặt ra đến hết năm 2017, BHXH tỉnh
phải khai thác thêm 2.034 người mới đạt kế hoạch BHXH VN giao.
Để thúc đẩy người dân có thu nhập tham gia BHXH tự nguyện, BHYT
theo hộ gia đình ngày một tăng, đặc biệt là người dân ở các làng nghề
trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố, ngày 31/5/2017, BHXH tỉnh Hải
Dương đã ban hành công văn số 592/BHXH-KTTN về việc triển khai điểm
BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình tại các làng nghề.
Một trong những giải pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh phát triển đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện, BHXH tỉnh đã phát động phong trào thi
đua chuyên đề nhằm hoàn thành kế hoạch thu BHXH tự nguyện năm
2017 với chủ đề "Toàn thể cán bộ, CCVC, người lao động tích cực tuyên
truyền, vận động nhân dân tham gia BHXH tự nguyện; quyết tâmhoàn
thành chi tiêu thu BHXH tự nguyện năm 2017”.Trong đó nhấn mạnh: Mỗi
cán bộ, CCVC, người lao động thuộc hệ thống BHXH tỉnh là một tuyên
truyền viên về BHXH, BHTN, BHYT. Tập trung tuyên truyền, phổ biến các
quy định mới, các chính sách ưu đãi khi tham gia BHXH tự nguyện đến
người thân, bạn bè, anh em... và toàn thể nhân dân. Giúp người dân hiểu
được chính sách tốt đẹp của Đảng và Nhà nước đối với người tự nguyện
tham gia BHYT, khi tham gia BHXH có sự hỗ trợ của Nhà nước (về mức
đóng, quyền lợi được hưởng...)
Theo enternews.vn
9. Không có chuyện làm lý lịch tư pháp siêu nhanh!
Sở Tư pháp TP.HCM đặt bảng thông báo tại cổng vào để cảnh báo
người dân không cả tin mà mất số tiền lớn oan uổng.
Nội dung thông báo được viết bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, đề nghị
người dân có nhu cầu giải quyết hồ sơ thì vào thẳng văn phòng, gặp
công chức của Sở, tuyệt đối không tin và không giao dịch với những
người bên ngoài cơ quan, tự nhận có thể làm hồ sơ “siêu nhanh” với
mức phí cao.
Tốn tiền mà chẳng được gì
Ngày 13-6, ông Phan Minh Hoàng (Trưởng ban Pháp chế Công ty Tâm
Nhân Đức) cùng ông VTT (Chủ tịch hội đồng thành viên công ty trên)
đến Sở Tư pháp làm thủ tục cấp phiếu lý lịch tư pháp (LLTP) số 2. Cán
bộ Sở cấp biên nhận, hẹn ngày trả kết quả là ngày 4-7.
Tuy nhiên, do ông T. cần giấy gấp nên ông Hoàng đến Công ty V. (quận
3) yêu cầu dịch vụ làm nhanh phiếu trong 10 ngày, mức phí 4,2 triệu
đồng. Đến ngày hẹn, bên dịch vụ lại cho biết do công ty ông T. từng vi
phạm hành chính, phải bổ sung giấy tờ nên hẹn sớm nhất phải 2-3 tuần
mới xong. Sau đó, Sở cũng có thông báo hồ sơ ông T. vẫn đang chờ
xác minh, chưa có kết quả và chưa biết khi nào có.
Người dân làm thủ tục lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp TP.HCM. Ảnh:
HOÀNG GIANG
Trường hợp khác, bà Phạm Thị Bích (quận Bình Tân) đến Sở làm thủ
tục cấp phiếu LLTP (phiếu số 1). Vừa đến cổng đã có người giới thiệu
bà dịch vụ “làm nhanh” 10 ngày, giá 3 triệu đồng. “Lúc đầu tôi cũng định
làm theo nhưng nghĩ mình tới đây rồi và nghe nói là sở này nghiêm lắm
nên tôi yên tâm tự làm” - bà Bích nói.
Không kiên quyết như bà Bích, ông Phạm Văn Q. (quận 6) dù không có
nhu cầu làm nhanh nhưng nghe “cò” dọa nào thiếu hồ sơ, nào chưa hợp
lệ… sẽ phiền phức. Ông Q. trả 500.000 đồng cho người này để nghe
hướng dẫn nhưng đến khi vào làm mới hối hận vì “biết dễ vậy tôi đâu có
mất tiền. Mình đủ hồ sơ thì cán bộ nhận chứ có gây khó dễ gì đâu”.
Sở không có làm nhanh, chậm mà chỉ làm đúng
Trao đổi với chúng tôi, bà Hoàng Thị Hương Lan, Trưởng phòng LLTP,
cho biết hồ sơ của ông T. hẹn trả kết quả ngày 4-7 nhưng tới ngày đó
Sở chưa nhận được kết quả xác minh từ cơ quan có thẩm quyền, không
thể trả phiếu đúng hẹn. Đến ngày 17-7, Sở có kết quả xác minh đã liên
hệ để ông T. đến nhận phiếu ngay.
Sở không có trách nhiệm trong việc ông T. tốn phí cho dịch vụ làm
nhanh, cũng như không hề có chuyện lấy tiền làm nhanh. Tất cả thủ tục
đều phải tuân thủ pháp luật và đúng quy trình, thời gian theo bộ thủ tục
hành chính đã được chuẩn hóa công bố công khai tại trụ sở và trên
trang web của cơ quan. Đối với những trường hợp chậm có kết quả, Sở
sẽ gửi tin nhắn hoặc thông báo cho người yêu cầu biết.
Bà Lan lưu ý người dân khi đến làm thủ tục hành chính tại Sở không nên
tiếp xúc với người ngoài mà hãy vào bên trong, gặp trực tiếp cán bộ tại
bộ phận một cửa. Sở không có chuyện làm nhanh, làm chậm mà chỉ có
làm đúng quy định về cả thời gian và mức lệ phí.
Thủ tục cấp phiếu LLTP số 1, số 2 cho cá nhân
Bước 1: Người yêu cầu cấp phiếu LLTP nộp hồ sơ trực tiếp cho bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả Sở Tư pháp (số 141-143 Pasteur, phường 6,
quận 3) trong giờ làm việc, qua dịch vụ bưu chính hoặc đăng ký trực
tuyến tại website https://lltptructuyen.moj.gov.vn.
Bước 2: Sở tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ. Nếu hợp lệ sẽ được cấp biên
nhận; nếu cần bổ sung, công chức của Sở sẽ hướng dẫn bằng văn bản
cho người dân.
Bước 3: Trong thời hạn một ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ,
Sở gửi phiếu xác minh thông tin LLTP kèm một bộ hồ sơ đến các cơ
quan có thẩm quyền. Trường hợp từ chối sẽ có thông báo bằng văn bản
nêu rõ lý do.
Bước 4: Sau khi có kết quả xác minh, Sở sẽ tra cứu, đối chiếu thông tin
LLTP tại cơ sở dữ liệu của Sở và cấp phiếu LLTP cho người dân.
Trường hợp kết quả xác minh là có án tích, tiền sự hoặc thông tin chưa
rõ ràng, Sở mời người có tên trong hồ sơ để bổ sung, làm rõ hoặc tiếp
tục xác minh tại các cơ quan khác.
Bước 5: Người dân đến ngày hẹn đem biên nhận đến Sở nhận phiếu
hoặc nhận qua bưu điện theo đăng ký.
Theo plo.vn
10. Khó dẹp lò giết mổ thủ công dù đã "quyết tâm" hơn 10 năm
Việc chậm xây dựng các nhà máy giết mổ công nghiệp đã ít nhiều
cản trở ngành chăn nuôi phát triển khi phần lớn thịt hiện nay "ra lò"
từ các cơ sở giết mổ thủ công
Theo quy hoạch hệ thống cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm của TP HCM
giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2025, tất cả cơ sở giết mổ
hiện hữu phải chấm dứt hoạt động vào cuối năm 2017, trừ 2 cơ sở tại
huyện Cần Giờ cung cấp sản phẩm cho người dân địa phương. Theo
đó, toàn bộ hoạt động giết mổ heo sẽ được đưa vào 6 nhà máy quy mô
công nghiệp hiện đại trên địa bàn 2 huyện Hóc Môn và Củ Chi, với tổng
công suất giết mổ 10.000-15.000 con/ngày.
Chưa có nhà máy hiện đại
Cuối năm 2015, TP HCM có 21 cơ sở giết mổ có giấy phép hoạt động.
Đến nay, chỉ còn 12 cơ sở đang hoạt động, trong đó 11 cơ sở giết mổ
heo với sản lượng khoảng 8.000 con/ngày, cung cấp sản phẩm động vật
đã qua kiểm soát của cơ quan thú y cho người tiêu dùng nhưng chưa có
nhà máy giết mổ công nghiệp nào đi vào hoạt động.
Những cơ sở đang hoạt động trong tình trạng chờ di dời, đóng cửa nên
thiếu sự đầu tư, nâng cấp. Do đó, theo nhận định từ cơ quan quản lý,
hiện việc tuân thủ các quy định của các cơ sở giết mổ về giảm thiểu mùi
hôi, tiếng ồn, vệ sinh thú y, an toàn vệ sinh thực phẩm còn nhiều hạn
chế, gây khó khăn trong quản lý.
Trong đợt khủng hoảng thừa heo vừa qua, việc lò mổ không đạt chuẩn
đã được nhắc đến như một điểm yếu của ngành chăn nuôi khiến cho bài
toán tạm trữ gặp khó. Do lò mổ thủ công giết mổ trong nhiệt độ bình
thường, chủ yếu bán thịt tươi hoặc chế biến ngay, nếu đưa vào cấp
đông thời hạn sử dụng ngắn (khoảng 3-6 tháng), không được 1-2 năm
như các nước tiên tiến.
TP HCM khó hoàn thành kế hoạch chấm dứt hoạt động của các cơ sở
giết mổ thủ công vào cuối năm nay
Theo quy hoạch, 6 nhà máy giết mổ heo hiện đại của Công ty CP Chế
biến thực phẩm Hóc Môn (công suất 2.000 con/ngày), HTX Tân Hiệp
(công suất 2.000 con/ngày), Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn - TNHH
MTV (công suất 2.000 con/ngày), Công ty TNHH Dịch vụ An Hạ (công
suất 3.000 con/ngày), Công ty TNHH Thực phẩm Lộc An (công suất
2.000 con/ngày), Công ty CP Nhị Tân (công suất 1.000 con/ngày) nhưng
hầu hết khó hoàn thành vào cuối năm 2017. Trong đó có nhà máy vẫn
chưa có quyết định đầu tư vì đang trong giai đoạn xin chuyển đổi mục
đích sử dụng đất.
Dự án của HTX Tân Hiệp thực hiện cách đây 10 năm nhưng mới cơ bản
hoàn thiện thủ tục pháp lý (Báo Người Lao Động đã phản ánh), đến nay
lại bế tắc do không có đường vào nhà máy. Theo ông Bạch Đăng
Quang, Giám đốc HTX Tân Hiệp, cam kết ban đầu thì đường vào nhà
máy do ngân sách đầu tư nhưng nay vẫn chưa có trong quy hoạch,
trong khi HTX không thể chi cả trăm tỉ đồng để làm con đường này.
Nguyên nhân nhà máy giết mổ của Công ty CP Việt Nam Kỹ nghệ súc
sản (VISSAN) tại Long An chậm tiến độ, theo bà Đặng Thị Phương Ninh,
Phó Tổng Giám đốc VISSAN, là do khi cổ phần hóa phải làm lại các thủ
tục đầu tư. Vì vậy, thời gian hoàn thành phải kéo dài thêm 1 năm, đến
cuối năm 2018 mới xong. Như vậy, đến đầu năm 2019 mới chuyển được
hoạt động giết mổ của VISSAN từ nhà máy ở TP HCM về tỉnh Long An.
Do nhà máy hiện hữu đã là quy mô công nghiệp nên VISSAN xin cơ
quan chức năng được tiếp tục duy trì hoạt động trong thời gian chờ xây
xong nhà máy mới, thay vì ngưng theo lộ trình.
Dự án được đánh giá khả thi nhất, có thể hoạt động vào cuối năm 2017
là của Công ty CP Chế biến thực phẩm Hóc Môn khi đang thẩm định dây
chuyền giết mổ công nghiệp để lắp đặt thiết bị.
Trao đổi với phóng viên, ông Lê Văn Mỵ, Chủ tịch HĐQT Công ty CP
Thương mại Hóc Môn (chủ quản Công ty CP Chế biến thực phẩm Hóc
Môn), cho biết đã quá vất vả khi trải qua chặng đường 7 năm với tổng
vốn bỏ ra khoảng 220 tỉ đồng cho dự án này. "Khó nhất là thủ tục hành
chính khi để xây được nhà máy giết mổ, công ty phải hoàn thiện 44 hồ
sơ pháp lý vô cùng phức tạp nên những dự án mới khởi động gần đây
không thể nào xong trong vài tháng theo lộ trình" - ông Mỵ lý giải.
Nhiều bất lợi cho nhà máy công nghiệp
Theo ông Lê Văn Mỵ, nếu chỉ có một nhà máy công nghiệp đi vào hoạt
động, trong khi các lò mổ thủ công vẫn duy trì thì cơ sở hiện đại sẽ
không cạnh tranh được. Lý do là chi phí giết mổ gia công tại nhà máy
hiện đại dự kiến đắt gấp đôi giá của lò mổ thủ công. Đó là chưa kể thịt
mổ theo quy trình công nghiệp sạch, bảo đảm an toàn thực phẩm nhưng
về cảm quan lại không hợp thị hiếu người tiêu dùng hiện nay.
Ông Văn Đức Mười, chuyên gia ngành chăn nuôi, đánh giá lộ trình
chuyển đổi từ giết mổ thủ công sang công nghiệp như kế hoạch là không
khả thi do thủ tục nhiêu khê và thiếu giải pháp đồng bộ. "Để chuyển sang
giết mổ công nghiệp phải gắn với quy hoạch chăn nuôi tập trung, vùng
an toàn dịch bệnh và đi vào hoạt động đồng loạt. Nếu lấy mục tiêu bảo
đảm an toàn thực phẩm lên hàng đầu thì không thể để giết mổ thủ công
cùng tồn tại mà phải có phương án chuyển nghề cho người làm công ở
đây và những người bán thịt nhỏ lẻ. Đây không phải lần đầu TP HCM
đưa ra "tối hậu thư" chấm dứt giết mổ thủ công. Lần đầu, lộ trình đưa ra
là các cơ sở giết mổ thủ công chỉ được hoạt động tạm thời đến cuối năm
2006 trong quy hoạch năm 2005, sau đó dời đến cuối năm 2013. Lúc
làm tổng giám đốc VISSAN, tôi buộc phải chọn cách nhận khuyết điểm
chậm tiến độ xây dựng nhà máy giết mổ công nghiệp hơn là cố làm
đúng tiến độ nhưng sẽ lãnh khuyết điểm lớn hơn là bị lỗ" - ông Mười
nói.
Lo heo chuyển về tỉnh giết mổ
Dù hiện trạng giết mổ của TP HCM còn nhiều hạn chế nhưng so với các
tỉnh thì việc tổ chức kiểm soát của TP vẫn chặt chẽ hơn. Đó là nhận xét
mới đây của đoàn đại biểu Quốc hội sau khi tổ chức giám sát diện rộng
tình hình thực thi an toàn thực phẩm của cả nước năm 2016.
Theo nhận định của nhiều người, khi TP HCM siết chặt quản lý, thương
lái chuyển heo về giết mổ ở các tỉnh giáp ranh rồi mang đến TP tiêu thụ,
gây khó khăn cho việc kiểm soát. Trong khi ở các tỉnh, ngoài những
điểm giết mổ hợp pháp, vẫn có tình trạng mổ lậu mất vệ sinh, là nơi "hóa
kiếp" của nhiều heo bệnh, chứa chất cấm, thuốc mê…
Theo nld.com.vn